Tiếp tục xây dựng Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số và nền kinh tế số ở Việt Nam
Cập nhật : 17:43 - 20/04/2024


Từnhững năm 2000, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm, coi trọng phát triển ứng dụngcông nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan Nhà nước, xác định đây là độnglực góp phần thúc đẩy công cuộc đổi mới tạo khả năng đi tắt, đón đầu để thựchiện thắng lợi công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Năm 2014, Bộ Chính trị đã banhành Nghị quyết số 36-NQ/TW về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công nghệ thôngtin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế với quan điểm “Ứngdụng, phát triển công nghệ thông tin trong tất cả các lĩnh vực, song có trọngtâm, trọng điểm. Ưu tiên ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hành chính,cung cấp dịch vụ công, trước hết là trong lĩnh vực liên quan tới doanh nghiệp,người dân như giáo dục, y tế, giao thông, nông nghiệp…”. Nghị quyết đã xácđịnh mục tiêu cụ thể đến năm 2020“triển khai có hiệu quả chương trình cảicách hành chính, gắn kết chặt chẽ với việc xây dựng Chính phủ điện tử và cungcấp dịch vụ công trực tuyến ở mức độ cao và trong nhiều lĩnh vực”. Cụthể hóa chủ trương của Đảng, năm 2015, Chính phủ đã có Nghị quyết đầu tiên tậptrung về Chính phủ điện tử nhằm“Đẩy mạnh phát triển Chính phủ điện tử, nângcao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan Nhà nước, phục vụ người dânvà doanh nghiệp ngày càng tốt hơn. Nâng vị trí của Việt Nam về Chính phủ điệntử theo xếp hạng của Liên Hợp Quốc. Công khai, minh bạch hoạt động của các cơquan Nhà nước trên môi trường mạng”.

Trêncơ sở đó, các bộ, ngành, địa phương đã có nhiều cố gắng và đạt được những kếtquả bước đầu quan trọng làm nền tảng trong triển khai xây dựng Chính phủ điệntử. Hành lang pháp lý trong ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng Chính phủđiện tử đã dần được thiết lập. Một số cơ sở dữ liệu mang tính chất nền tảngthông tin như Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, Cơ sở dữ liệuquốc gia về bảo hiểm, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu đất đaiquốc gia đang được xây dựng và đã có những cấu phần đi vào vận hành. Các cơquan Nhà nước đã cung cấp một số dịch vụ công trực tuyến thiết yếu cho doanhnghiệp và người dân như: Đăng ký doanh nghiệp, kê khai thuế, nộp thuế, hải quanđiện tử, bảo hiểm xã hội… Một số bộ, ngành đã xử lý hồ sơ công việc trên môitrường mạng. Tại một số địa phương, hệ thống thông tin một cửa điện tử được đưavào vận hành, dần nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm của đội ngũ công chức.Chất lượng nhân lực về công nghệ thông tin của Việt Nam cũng đã được quan tâm.

Tuynhiên, tổng quan có thể thấy, việc triển khai Chính phủ điện tử chưa đạt đượcnhư mong muốn của lãnh đạo Đảng, lãnh đạo Chính phủ. Vị trí của Việt Nam trongBảng xếp hạng Chỉ số phát triển Chính phủ điện tử của Liên Hợp Quốc vẫn ở mứctrung bình, theo báo cáo mới nhất của Liên Hợp Quốc, 2 năm qua, chúng ta tăng 1bậc, đang xếp thứ 88 trong tổng số 193 quốc gia và lãnh thổ được đánh giá.Trong khu vực ASEAN, Việt Nam chỉ được xếp hạng khiêm tốn ở vị trí thứ 6. Kếtquả triển khai nhiều nhiệm vụ về Chính phủ điện tử còn rất chậm và nhiều nơithực hiện mang tính hình thức. Việc xây dựng triển khai các cơ sở dữ liệu quốcgia, hạ tầng công nghệ thông tin làm nền tảng phục vụ phát triển Chính phủ điệntử rất chậm so với tiến độ cần có; các hệ thống thông tin dữ liệu còn cục bộ,chưa có kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các hệ thống thông tin; chất lượng dữliệu và thông tin chưa được cập nhật kịp thời, chính xác; nhiều hệ thống thôngtin đã triển khai chưa bảo đảm an toàn, an ninh thông tin, mức độ tin cậy củaquốc gia trong giao dịch điện tử thấp. Việc cung cấp dịch vụ công trực tuyếncòn chạy theo số lượng trong khi tỷ lệ hồ sơ thực hiện dịch vụ công trực tuyếncòn rất thấp; việc giải quyết thủ tục hành chính và xử lý hồ sơ công việc cònmang nặng tính thủ công, giấy tờ. Còn những rào cản trong cơ chế đầu tư ứngdụng công nghệ thông tin gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong triển khai cácdự án. Điều này dẫn đến tình trạng nhiều lãnh đạo Chính phủ, bộ, ngành, địaphương còn chưa có đầy đủ thông tin dữ liệu số của các đối tượng mình quản lý.

Nguyênnhân chủ yếu của vấn đề trên là do nhiều cấp, nhiều ngành chưa xác định rõ lộtrình và các nhiệm vụ cụ thể để triển khai, còn thiếu gắn kết giữa ứng dụngcông nghệ thông tin với cải cách thủ tục hành chính và đổi mới lề lối, phươngthức làm việc, nhất là trong quan hệ với người dân, doanh nghiệp; chưa phát huyvai trò của người đứng đầu trong chỉ đạo thực hiện. Nền tảng tích hợp, chia sẻdữ liệu giữa các cơ quan hành chính Nhà nước cũng như quy định về cơ chế tíchhợp, chia sẻ dữ liệu còn thiếu; thói quen cát cứ dữ liệu còn tồn tại ở nhiều cơquan; việc bảo đảm an toàn, an ninh cho các hệ thống thông tin của các cơ quanNhà nước còn chưa được quan tâm đúng mức. Đặc biệt chúng ta còn thiếu khungpháp lý đồng bộ về xây dựng Chính phủ điện tử, thiếu quy định cụ thể về xácthực cá nhân, tổ chức trong các giao dịch điện tử cũng như các quy định pháp lývề văn thư, lưu trữ điện tử, giá trị pháp lý của văn bản điện tử trong giaodịch hành chính và thanh toán. Cơ chế bảo đảm thực thi nhiệm vụ xây dựng Chínhphủ điện tử chưa đủ mạnh cũng là nguyên nhân của việc thực hiện còn thiếu hiệuquả và mang nặng tính hình thức. Chúng ta cũng chưa phát huy tối đa sự tham giacủa khu vực tư nhân trong xây dựng Chính phủ điện tử và thiếu cơ chế tài chínhvà đầu tư phù hợp với đặc thù dự án công nghệ thông tin.

Đểtiếp tục kế thừa, phát huy những thành quả đạt được, đáp ứng các mục tiêu, yêucầu của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong thời gian tới, khắc phục những hạnchế tồn tại, từng bước hiện thực hóa quyết tâm xây dựng Chính phủ kiến tạo,phát triển, liêm chính, hành động, phục vụ người dân, doanh nghiệp nhất làtrong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, thời gian tới chúng ta cần hoàn thiệnnền tảng cho phát triển Chính phủ điện tử hướng tới nền kinh tế số, xã hội sốvà nâng cao năng lực, hiệu quả của tổ chức bộ máy Chính phủ. Đồng thời cần bảođảm an toàn, an ninh thông tin, an ninh mạng và tiếp tục nâng vị trí của ViệtNam về Chính phủ điện tử theo xếp hạng của Liên Hợp Quốc cũng như đóng góp vàoviệc gia tăng các chỉ số cạnh tranh và chỉ số phát triển của quốc gia.

Nhìnvào thành quả của các nước trên thế giới, có thể nói, triển khai Chính phủ điệntử là xu hướng tất yếu, nâng cao tính minh bạch trong hoạt động của Chính phủ,đẩy lùi nạn tham nhũng, góp phần phát triển kinh tế, nâng cao năng lực cạnhtranh, năng suất lao động và là con đường để tạo lập phồn vinh cho dân tộc. Đểcó bước đột phá mạnh mẽ, Việt Nam cần nghiên cứu, học tập kinh nghiệm của thếgiới và xây dựng các bước triển khai cụ thể, trực diện với hiệu quả cao nhất.Với tinh thần như vậy, hiện nay, Văn phòng Chính phủ đang chủ trì xây dựng dựthảo Nghị quyết mới của Chính phủ về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm pháttriển Chính phủ điện tử giai đoạn 2018-2020, định hướng đến năm 2025. Đây sẽ làđịnh hướng cụ thể để triển khai các nhiệm vụ xây dựng Chính phủ điện tử hướngtới nền kinh tế số, xã hội số trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 đangdiễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu. Theo đó, Chính phủ tập trung vào những nhiệm vụưu tiên sau đây:

1.Đẩy nhanh việc xây dựng, hoàn thiện thể chế tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, toàn diệncho việc triển khai, xây dựng phát triển Chính phủ điện tử

Theokinh nghiệm các quốc gia phát triển về Chính phủ điện tử, nền tảng thể chếChính phủ điện tử phải đi trước, trong khi chúng ta còn thiếu nhiều quy định vàchính sách. Do vậy cần ban hành các Nghị định về chia sẻ dữ liệu; về bảo vệ dữliệu cá nhân; về xác thực điện tử; về bảo vệ dữ liệu cá nhân và bảo đảm quyềnriêng tư của cá nhân; về chế độ báo cáo giữa các cơ quan hành chính Nhà nước.Khẩn trương ban hành Nghị định về đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin phù hợpvới đặc thù của lĩnh vực này, thay thế Nghị định số 102/2009/NĐ-CP về đầu tưứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan Nhà nước và Quyết định số80/2014/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về thuê dịch vụ công nghệ thông tin.Trong thời gian tới cần nghiên cứu, đề xuất xây dựng Luật Chính phủ điện tử vàcác văn bản hướng dẫn bảo đảm hành lang pháp lý phát triển Chính phủ điện tửdựa trên dữ liệu mở, ứng dụng các công nghệ mới hướng tới nền kinh tế số, xãhội số.

2.Hoàn thành các cơ sở dữ liệu quốc gia mang tính chất nền tảng

Songsong với việc xây dựng các thể chế, cần tập trung hoàn thiện xây dựng các cơ sởdữ liệu nền tảng quốc gia, đặc biệt là cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đấtđai... Và để bảo đảm hiệu quả sử dụng của các cơ sở dữ liệu quốc gia này cầntiến hành xây dựng nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu giữa các hệ thống thôngtin ở Trung ương và địa phương; hệ thống liên thông gửi, nhận văn bản điện tử;hệ thống xác thực định danh điện tử; liên thông giữa các hệ thống chứng thựcchữ ký số chuyên dùng của Chính phủ và chữ ký số công cộng; Cổng thanh toánquốc gia… để bảo đảm dữ liệu, thông tin được thông suốt giữa các cấp Chính phủ.

3.Thiết lập các hệ thống ứng dụng phục vụ người dân, doanh nghiệp và phục vụ quảnlý điều hành của Chính phủ

Vănphòng Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương đang tích cực trong việc xây dựngCổng dịch vụ công quốc gia và triển khai Hệ thống thông tin một cửa điện tử kếtnối Cổng dịch vụ công bộ, ngành, địa phương; đây là hệ thống quan trọng để kếtnối Chính phủ với người dân và doanh nghiệp, thể hiện tinh thần phục vụ củaChính phủ. Cổng dịch vụ công quốc gia cần tiến tới là một hiện diện số nhấtquán, đầy đủ và thân thiện của Chính phủ phục vụ người dân và doanh nghiệp.

Đểphục vụ việc quản lý, điều hành của Chính phủ, thời gian tới, các Hệ thốngthông tin Chính phủ không giấy tờ; Hệ thống điện tử về tham vấn chính sách; Hệthống thông tin báo cáo quốc gia tiến tới xây dựng Trung tâm chỉ đạo, điều hànhcủa Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đang được tập trung nghiên cứu, thiết lập.

4.Rà soát, sắp xếp lại và huy động mọi nguồn lực cả về tài chính và con người

Trongnhững năm qua, Chính phủ đã có những đầu tư nhất định trong việc triển khai ứngdụng công nghệ thông tin. Tuy nhiên, các dự án đầu tư vẫn còn phân tán chưa tạora được thay đổi mang tính nền tảng nhằm xây dựng Chính phủ điện tử. Thời giantới, để nâng cao hiệu quả đầu tư, cần rà soát, sắp xếp lại và huy động cácnguồn lực để triển khai các nhiệm vụ ưu tiên phát triển Chính phủ điện tử, điềuchỉnh cơ chế đầu tư đặc thù cho công nghệ thông tin, tăng cường xã hội hóa đểphát huy hiệu quả hợp tác công - tư trong công tác này. Đồng thời, cần tổ chứcđào tạo, tập huấn, khai thác sử dụng các hệ thống thông tin, sử dụng dịch vụcông trực tuyến mức độ 3, 4 cho người dân, doanh nghiệp và nghiên cứu, xây dựngcơ chế khuyến khích thu hút nhân tài tham gia xây dựng, phát triển Chính phủđiện tử.

Chúngta cũng cần nâng cao hiệu quả công tác truyền thông, nhận thức về Chính phủđiện tử, kinh tế số, hạ tầng số thông qua việc triển khai chương trình truyềnthông để nâng cao nhận thức thay đổi thói quen hành vi, tạo sự đồng thuận củacác bên về phát triển Chính phủ điện tử.

5.Phát huy vai trò người đứng đầu, nâng cao hiệu quả thực thi và trách nhiệm giảitrình

Thểhiện quyết tâm xây dựng Chính phủ điện tử, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo việcthành lập Ủy ban quốc gia về Chính phủ điện tử trên cơ sở kiện toàn Ủy ban quốcgia về ứng dụng công nghệ thông tin do Thủ tướng Chính phủ là Chủ tịch Ủy ban.Ủy ban có các thành viên là Bộ trưởng các bộ liên quan trực tiếp tới các nhiệmvụ trong xây dựng Chính phủ điện tử để gắn kết xuyên suốt các bộ, ngành, địaphương trong thực hiện nhiệm vụ. Đồng thời Ủy ban có sự tham gia của đại diệncho khu vực tư nhân giúp phát huy hiệu quả hợp tác công - tư trong triển khaithực hiện nhiệm vụ này. Các nhiệm vụ triển khai Chính phủ điện tử sẽ được đánhgiá gắn liền với trách nhiệm cá nhân người đứng đầu từng bộ, ngành, địa phươngvà được đo lường qua bộ chỉ tiêu đánh giá hiệu quả, đo lường chất lượng kết quảxây dựng Chính phủ điện tử để bảo đảm tính chính xác và công bằng thông qua Tổcông tác giúp việc của Ủy ban.

Xâydựng Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số, nền kinh tế số là một chủ trươnglớn. Để hoàn thành được các mục tiêu đã đề ra cần có sự vào cuộc với quyết tâmcao của cả hệ thống chính trị tạo ra một phương thức điều hành mới, một cáchlàm mới nhằm góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển, ứng dụng rộngrãi công nghệ thông tin nhằm phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; tậndụng tối đa lợi ích của công nghệ số mang lại, bảo đảm phát triển nhanh, bềnvững đất nước.

 

 

 
  • Ông Nguyễn Văn Tố Trưởng ban thường trực quốc hội khoá I (2/3/1946 - 8/11/1946)
  • Bà Nguyễn Thị Kim Ngân Chủ tịch Quốc hội khóa XIII, XIV (Từ 31/3/2016 đến 30/3/2021)
  • Ông Vương Đình Huệ Chủ tịch Quốc hội khóa XIV (từ ngày 31/3/2021)
  • Ông Bùi Bằng Đoàn Trưởng ban thường trực quốc hội khoá I (9/11/1946 - 13/4/1955)
  • Ông Tôn Đức Thắng Trưởng ban thường trực quốc hội khoá I (20/9/1955 - 15/7/1960)
  • Ông Trường Chinh Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội các khoá II, III, IV, V, VI (15/7/1960 - 04/7/1981)
  • Ông Nguyễn Hữu Thọ Chủ tịch Quốc hội khoá VII (4/7/1981 – 18/6/1987)
  • Ông Lê Quang Đạo Chủ tịch Quốc hội khoá VIII (18/6/1987 – 23/9/1992)
  • Ông Nông Đức Mạnh Chủ tịch Quốc hội khoá IX, X (23/9/1992 – 27/6/2001)
  • Ông Nguyễn Văn An Chủ tịch Quốc hội khoá X, XI (27/6/2001 - 26/6/2006)
  • Ông Nguyễn Phú Trọng Chủ tịch Quốc hội XI, XII (27/6/2006 - 23/7/2011)
  • Ông Nguyễn Sinh Hùng Chủ tịch Quốc hội khoá XIII (Từ 23/7/2011)
QUỐC HỘI KHÓA XV
Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV được tiến hành vào ngày 23/5/2021 với tổng số đại biểu Quốc hội là 499 đại biểu.
Cơ cấu như sau:
- 38,88% đại biểu ở các cơ quan Trung ương;
- 60,32% đại biểu ở địa phương;
- 0,80% đại biểu tự ứng cử;
- 17,84% đại biểu là người dân tộc thiểu số;
- 30,26% đại biểu là phụ nữ;
- 2,81% đại biểu là người ngoài Đảng;
- 9,42% đại biểu là người trẻ tuổi;
- 39,28% đại biểu là đại biểu Quốc hội khóa XIV tái cử;
- 1,40% đại biểu đã là đại biểu Quốc hội các khóa trước;
- 59,32% đại biểu tham gia Quốc hội lần đầu;
- 78,56% đại biểu có trình độ trên đại học;
- 21,24% đại biểu có trình độ đại học;
- 0,20% đại biểu có trình độ dưới đại học.
WEBLINK