Một số khó khăn của doanh nghiệp Việt Nam giai đoạn sau đại dịch (2019 – 2022).
Cập nhật : 10:34 - 06/07/2023

I. Thực trạng Doanh nghiệp gia nhập và rút lui khỏi thị trường 

Đại dịch Covid-19 bắt đầu tại Việt Nam từ đầu năm 2020 và đặc biệt với các đợt bùng phát lớn trong năm 2021, Chính quyền nhiều tỉnh/thành phố thực hiện các biện pháp giãn cách, phong tỏa, cách ly xã hội. Điều này làm cho lưu thông hàng hóa và chuỗi cung ứng ngay trong nước bị đứt gãy, các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bị đình trệ, và việc đi lại của người lao động bị cản trở. Điều này phản ánh rõ nét qua số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, tái nhập lại thị trường giảm liên tiếp trong 2 năm 2020 và 2021, đồng thời số lượng doanh nghiệp đóng cửa tạm thời cũng gia tăng mạnh. 

Tốc độ doanh nghiệp đóng cửa tạm thời năm 2020 và 2021 lần lượt là 71% và 26%. Theo khảo sát doanh nghiệp trong bối cảnh dịch vào tháng 8/2021 của Ban nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV) phối hợp với VnExpress thực hiện trong bối cảnh dịch bùng phát từ tháng 5/2021 đến tháng 8/2021 thì lý do chính khiến doanh nghiệp phải tạm ngừng kinh doanh là do đứt gãy chuỗi cung ứng (35,4% doanh nghiệp tham gia khảo sát), còn lại phần lớn doanh nghiệp tạm ngừng do chính sách phong tỏa, cách ly, giãn cách xã hội tại nhiều tỉnh/thành phố. 

Số lượng doanh nghiệp đăng ký mới trong năm 2020 và 2021 đều thấp hơn so với năm 2019. Điều này cũng khiến cho tỷ lệ thất nghiệp gia tăng cao trong năm 2020 và 2021 lần lượt là 2,9% và 2,6%. Đến năm 2022, sau khi tỷ lệ tiêm chủng của Việt Nam đạt đến miễn dịch cộng đồng, các hoạt động sản xuất kinh doanh và sinh hoạt của người dân về cơ bản diễn ra bình thường. Số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới trong năm 2022 là hơn 100 nghìn doanh nghiệp, tăng 28% so với năm 2021, số lượng doanh nghiệp tái ra nhập thị trường là hơn 48 nghìn doanh nghiệp, tăng trưởng với tốc độ là 48%, số doanh nghiệp đang hoạt động đăng ký thay đổi tăng vốn với số vốn tăng 63% so với năm 2021. 

Niềm tin của doanh nghiệp vào việc điều hành chính sách kinh tế - tài chính, sự ổn định chính trị, kiểm soát lạm phát của Chính phủ là một trong những động lực để các doanh nghiệp mới tham gia vào thị trường.

II. Một số khó khăn của doanh nghiệp Việt Nam sau bối cảnh dịch

1. Khó khăn về tài chính

Sau 2 năm ứng phó với Covid-19, các doanh nghiệp phải tạm đóng cửa hay giải thể phần lớn do khó khăn về tài chính, đặc biệt là khó khăn về dòng tiền để duy trì các hoạt động thường xuyên. Theo kết quả khảo sát của Ban IV và VnExpress vào tháng 8/2021, các doanh nghiệp trong bối cảnh dịch gặp khó khăn trong việc thanh toán tiền lương, tiền thuê đất, tiền thanh toán Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế và tiền trả lãi vay ngân hàng khi mà các nguồn thu của doanh nghiệp bị gián đoạn do đại dịch.

Đến nay, theo phản ánh từ các tổ chức, hiệp hội cho thấy, hầu hết các doanh nghiệp vẫn đứng trước khó khăn hết sức lớn bởi nhiều lý do:

(1) Thiếu vốn lưu động: các doanh nghiệp không có hoặc có ít doanh thu nhưng vẫn phải đảm bảo chi trả tiền nợ, lãi vay ngân hàng cùng các khoản khác để duy trì, vận hành doanh nghiệp ở mức độ tối thiểu.

(2) Chi phí đầu vào cho sản xuất tăng cao: Tỷ giá USD/VN đã tăng mạnh thời gian gần đây cho do Cục Dự trữ liên bang Hoa Kỳ (FED) tăng lãi suất. Tỷ giá tăng làm tăng giá nhập khẩu nguyên liệu dầu vào cho sản xuất đối với các doanh nghiệp nhập khẩu thanh toán bằng USD, chi phí vận tải và logistics tiếp tục tăng cao là chi phí đầu vào tiếp tục tăng.

(3) Số lượng và lợi nhuận của đơn hàng sụt giảm do sự thắt chặt chi tiêu của người dân của các nền kinh tế lớn như Mỹ, hoặc các nước Châu Âu. Đồng tiền euro bị mất giá so với USD khiến cho đồng Việt Nam trở nên tăng giá, điều này làm giảm lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang Châu Âu.

2. Khó khăn về lao động 

Các doanh nghiệp bước vào giai đoạn phục hồi sau đại dịch cũng gặp khó khăn trong việc tuyển dụng lao động – Thiếu hụt cả số lượng và Thiếu hụt kỹ năng của người lao động. Việc thiếu hụt kỹ năng đã và đang là một trở ngại lớn đối với hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất, nhập khẩu, cùng với đó là sự cạnh tranh về lao động lành nghề, lao động chất lượng cao đi kèm với quá trình chuyển dịch đầu tư vào Việt Nam ngày càng khốc liệt. 

3. Khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn & không ưu tiên cho các hoạt động đổi mới sáng tạo để nâng cao năng suất, cải thiện năng lực cạnh tranh

Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam là các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên cách tiếp cận vốn duy nhất là vay vốn qua các ngân hàng thương mại. Tài sản đảm bảo giá trị thấp, số vốn vay được thấp nên hạn chế việc mở rộng đầu tư sản xuất kinh doanh, doanh nghiêp chưa ưu tiên cho các hoạt động đổi mới sáng tạo để cải thiện và nâng cao năng lực. 

4. Khó khăn trong việc tiếp cận thông tin cần thiết phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh

Việc tiếp cận thông tin về thị trường như giá cả, loại mặt hàng, sở thích thị trường, các rào cản kỹ thuật của thị trường có nhập khẩu hàng Việt Nam, thiếu thông tin về các loại công nghệ, thiết bị hiện đại cũng như giá cả liên quan. Đặc biệt hiện nay, trong bối cảnh các nước tham gia tại Hội nghị thượng đỉnh về biến đổi khí hậu của Liên Hợp Quốc lần thứ 26 (COP26) cùng cam kết đưa mức giảm phát thải ròng carbon về 0 vào năm 2050, các thị trường lớn là Châu Âu và Mỹ, thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam, đang đề xuất áp dụng một cơ chế mới được gọi là “Cơ chế điều chỉnh biên giới các-bon (viết tắt là CBAM)”, trong đó đưa ra các rào cản kỹ thuật, các quy định liên quan giảm phát thải buộc doanh nghiệp các nước xuất khẩu vào các thị trường này phải tuân theo và có thể đánh thuế các bon trong trường hợp các nước xuất khẩu không đáp ứng các quy định. Điều này cần có sự hỗ trợ tiếp cận thông tin cho các doanh nghiệp.

III. Các yếu tố đảm bảo năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 

Trong năm 2022, cùng với các chính sách phục hồi kinh tế của Chính phủ, nền kinh tế có các dấu hiệu phục hồi, tuy nhiên, số lượng doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh vẫn tăng khá cao, hơn 50 nghìn doanh nghiệp, với mức tăng là 38% so với cùng kỳ năm trước. Điều này có thể một phần do hệ quả của dịch bệnh Covid-19 kéo dài, các doanh nghiệp không còn khả năng duy trì khả năng cạnh tranh, hoặc cũng có thể do chính sự yếu kém trong nội tại Quản trị của doanh nghiệp. Vì thế, bài toán nâng cao năng lực cạnh tranh - sức chống chịu của doanh nghiệp trước các cú sốc và các thách thức bất ổn là vấn đề mấu chốt trong giai đoạn phục hồi kinh tế.

Năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp là khả năng tồn tại của doanh nghiệp trong điều kiện cạnh tranh, bằng cách chứng minh sản phẩm và dịch vụ có tính đổi mới và đa dạng đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng, cùng với giá cả cạnh tranh ngay cả thị trường trong nước và quốc tế. Từ trước tới nay, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đang được phân tích dựa trên hai chỉ số chính là năng suất và sản phẩm/ dịch vụ của doanh nghiệp, mà ở đó phải thỏa mãn tốt nhất cho khách hàng trên thị trường nhằm đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có lợi nhuận. Bên cạnh đó có tính đến các yếu tố nội tại của doanh nghiệp, đó là các yếu tố đầu vào của sản xuất như lao động, đất đai, máy móc cũng như trình độ quản lý, tiếp thị, nguồn tài chính, công nghệ và khả năng sáng tạo.

Tuy nhiên, trong điều kiện mới - phục hồi hậu Covid, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp còn cần tính đến cách tiếp cận với tư duy Phát triển bền vững - chắc chắn bên cạnh Lợi nhuận thì các yếu tố ESG (Environmental, Social, Governance) - Môi trường, Xã hội, Quản trị - cần được đưa vào chiến lược và đo lường qua các các kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm. 

Trên thực tế, các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình phát triển đã bộc lộ năng lực cạnh tranh kém hơn so với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ngay tại thị trường trong nước. Hơn thế, các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất dễ bị tổn thương khi có các cú sốc bất lợi từ bên ngoài như dịch bệnh, thiên tai, chiến tranh. 

Hàng năm, các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam “đóng góp khoảng 40% GDP, nộp ngân sách nhà nước 30%, đóng góp giá trị sản lượng công nghiệp 33%, giá trị hàng hóa xuất khẩu 30% và thu hút gần 60% lao động” . Nhưng doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam cũng dễ bị tổn thương. Khi các doanh nghiệp vừa và nhỏ rút lui khỏi thị trường vì họ không có khả năng vượt qua được khủng hoảng thì vốn doanh nghiệp đã đầu tư bị phá hủy, người lao động bị mất việc làm, mức độ bất bình đẳng trong xã hội có thể tăng lên. Chính vì vậy việc Chính phủ có thể cân nhắc các biện pháp giúp doanh nghiệp có thể tăng khả năng chống chịu trước những cú sốc.

Các biện pháp hỗ trợ nhằm vào các mục tiêu chính:

(1) Cải thiện tính ổn định về tài chính và tính thanh khoản: giúp các doanh nghiệp tránh khả năng mất thanh khoản do bị suy giảm loại nhuận tạm thời trước cú sốc bất khả kháng.
(2) Hỗ trợ các doanh nghiệp nghiệp trong việc duy trì hoạt động và thích ứng thông qua việc cải thiện tính linh hoạt trong điều hành hoạt động giúp doanh nghiệp tăng năng suất
(3) Hỗ trợ lao động trong việc duy trì việc làm và khả năng thích ứng giúp hỗ trợ lao động chống chọi được khi cú sốc bất lợi đến hoạt động của doanh nghiệp vừa và nhỏ vì họ là nguồn nhân lực quan trọng của doanh nghiệp vừa và nhỏ
(4) Tạo điều kiện thuận lợi cho các thủ tục tái cơ cấu để giảm số lượng và tác động của các doanh nghiệp có nguy cơ phá sản liên quan đến những thách thức pháp lý và tài chính khi có một cuộc khủng hoảng kéo dài.

TTBD
 
  • Ông Nguyễn Văn Tố Trưởng ban thường trực quốc hội khoá I (2/3/1946 - 8/11/1946)
  • Bà Nguyễn Thị Kim Ngân Chủ tịch Quốc hội khóa XIII, XIV (Từ 31/3/2016 đến 30/3/2021)
  • Ông Vương Đình Huệ Chủ tịch Quốc hội khóa XIV (từ ngày 31/3/2021)
  • Ông Bùi Bằng Đoàn Trưởng ban thường trực quốc hội khoá I (9/11/1946 - 13/4/1955)
  • Ông Tôn Đức Thắng Trưởng ban thường trực quốc hội khoá I (20/9/1955 - 15/7/1960)
  • Ông Trường Chinh Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội các khoá II, III, IV, V, VI (15/7/1960 - 04/7/1981)
  • Ông Nguyễn Hữu Thọ Chủ tịch Quốc hội khoá VII (4/7/1981 – 18/6/1987)
  • Ông Lê Quang Đạo Chủ tịch Quốc hội khoá VIII (18/6/1987 – 23/9/1992)
  • Ông Nông Đức Mạnh Chủ tịch Quốc hội khoá IX, X (23/9/1992 – 27/6/2001)
  • Ông Nguyễn Văn An Chủ tịch Quốc hội khoá X, XI (27/6/2001 - 26/6/2006)
  • Ông Nguyễn Phú Trọng Chủ tịch Quốc hội XI, XII (27/6/2006 - 23/7/2011)
  • Ông Nguyễn Sinh Hùng Chủ tịch Quốc hội khoá XIII (Từ 23/7/2011)
QUỐC HỘI KHÓA XV
Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV được tiến hành vào ngày 23/5/2021 với tổng số đại biểu Quốc hội là 499 đại biểu.
Cơ cấu như sau:
- 38,88% đại biểu ở các cơ quan Trung ương;
- 60,32% đại biểu ở địa phương;
- 0,80% đại biểu tự ứng cử;
- 17,84% đại biểu là người dân tộc thiểu số;
- 30,26% đại biểu là phụ nữ;
- 2,81% đại biểu là người ngoài Đảng;
- 9,42% đại biểu là người trẻ tuổi;
- 39,28% đại biểu là đại biểu Quốc hội khóa XIV tái cử;
- 1,40% đại biểu đã là đại biểu Quốc hội các khóa trước;
- 59,32% đại biểu tham gia Quốc hội lần đầu;
- 78,56% đại biểu có trình độ trên đại học;
- 21,24% đại biểu có trình độ đại học;
- 0,20% đại biểu có trình độ dưới đại học.
WEBLINK