Thách thức và rào cản trong phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo
Cập nhật : 13:42 - 24/03/2023

Trong thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, nền kinh tế Việt Nam đã và đang có những chuyển biến tích cực theo hướng phát triển nền kinh tế theo chiều sâu, giảm dần sự phụ thuộc vào khai thác tài nguyên thiên nhiên, xuất khẩu thô, lao động nhân công giá rẻ và mở rộng tín dụng, từng bước chuyển sang dựa vào ứng dụng mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. 
Năng suất lao động cải thiện rõ nét, đến năm 2020 tăng gần 1,5 lần so với năm 2015, tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2016 - 2020 đạt 5,9%/năm, cao hơn giai đoạn 2011 - 2015 (4,3%/năm) và vượt mục tiêu đề ra (5%/năm). Chỉ số đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) tăng cao, bình quân giai đoạn 2016 - 2020 đạt 5,7%/năm, vượt mục tiêu đặt ra (30 - 35%/năm). Tỉ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa tăng từ 19% năm 2010 lên khoảng 50% năm 2020.
Tiềm lực khoa học và công nghệ quốc gia được tăng cường, từng bước khẳng định vai trò động lực trong phát triển kinh tế - xã hội, đóng góp tích cực trong nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, bảo vệ môi trường, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân, bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, con người Việt Nam và bảo vệ Tổ quốc.
Về xếp hạng Đổi mới sáng tạo của Việt Nam so với thế giới, năm 2022 GII của Việt Nam xếp hạng 48/132 quốc gia (giảm 4 bậc so với năm 2021); đứng thứ 2 (sau Ấn Độ) trên 36 quốc gia/nền kinh tế có mức thu nhập trung bình thấp được xếp hạng; xếp thứ 10/17 nền kinh tế ở Đông Nam Á. Theo Báo cáo Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của WIPO, Việt Nam có kết quả xếp hạng ấn tượng ở trụ cột Thể chế và Sản phẩm sáng tạo. Báo cáo GII 2022 cho biết Trụ cột Thể chế tăng 32 bậc, từ thứ hạng 83 lên 51. Ba nhóm chỉ số trong trụ cột này đều có sự tăng hạng: Môi trường kinh doanh xếp hạng 30 (tăng 71), Môi trường chính trị xếp hạng 50 (tăng 8 bậc), Môi trường pháp lý xếp hạng 96 (tăng 2 bậc).
Khoảng 10 năm trước đây, kinh phí hoạt động KH&CN chủ yếu dựa vào ngân sách Nhà nước (chiếm khoảng 70-80% tổng đầu tư cho KH&CN). Đến nay, đầu tư cho KH&CN từ Ngân sách Nhà nước và từ doanh nghiệp đã tương đối cân bằng với tỉ lệ tương ứng là 52% và 48%. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã tiên phong trong đầu tư, ứng dụng KH&CN. Nghiên cứu khoa học kỹ thuật và công nghệ đã phát triển lên một tầm cao mới về năng lực và trình độ nghiên cứu, đóng góp ngày càng hiệu quả hơn cho phát triển kinh tế - xã hội và cải thiện đời sống nhân dân. Các công nghệ chủ chốt của Cách mạng công nghiệp 4.0 được ứng dụng sâu rộng hơn trong các chuỗi giá trị sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, cũng cần nhìn nhận rằng trình độ KH&CN của nước ta có khoảng cách đáng kể so với các nước nhóm đầu khu vực Đông Nam Á và còn tồn tại tồn tại những hạn chế, rào càn cần tiếp tục vượt qua trong giai đoạn tới. 
Phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo Việt Nam giai đoạn qua còn khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng và còn tồn tại một số rào cản, thách thức chính như sau:
(i) Hành lang pháp lý và cơ chế, chính sách còn thiếu đồng bộ, chưa thực sự tạo động lực cho phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, cũng như thúc đẩy trao đổi, mua bán các sản phẩm KH&CN trong nước và nước ngoài trên thị trường; thiếu cơ chế chính sách phù hợp hỗ trợ thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo và doanh nghiệp thực hiện đổi mới, ứng dụng công nghệ, đặc biệt là các công nghệ tiên tiến, thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; thiếu các cơ chế khoa học mạnh, cũng như cơ chế thu hút sự tham gia của các chuyên gia đầu ngành có khả năng dẫn dắt các hướng nghiên cứu mới. 
Ví dụ như: Luật Viên chức năm 2010 không cho phép công chức và viên chức góp vốn (kể cả tài sản trí tuệ) và tham gia điều hành doanh nghiệp, dẫn tới nhà khoa học không mặn mà với doanh nghiệp vì không được đảm bảo về quyền lợi, trong khi đó, nhà đầu tư thiếu tin tưởng khi tác giả của tài sản trí tuệ không có ràng buộc trách nhiệm và quyền lợi; Luật Quản lý và sử dụng tài sản công năm 2017 quy định kết quả nghiên cứu cần được định giá trước khi chuyển giao cho doanh nghiệp, đồng thời, cần hoàn trả toàn bộ kinh phí đã đầu tư theo tỉ lệ tương ứng cho Nhà nước khi thương mại hóa kết quả nghiên cứu thành công. Thực tế cho thấy, vấn đề định giá tài sản là kết quả nghiên cứu khoa học ở Việt Nam gặp nhiều vướng mắc, quá trình phát triển sản phẩm thành công có thể phát sinh nhiều chi phí so với chi phí đầu tư ban đầu. Do những khó khăn nêu trên, doanh nghiệp và nhà khoa học thường chọn phương thức hợp tác không chính thức để phát triển sản phẩm (các công ty “tầu ngầm”), dẫn tới bị thất thoát bí quyết sản phẩm và thiệt hại về tài chính.)
(ii) Hiệu quả của các tổ chức khoa học và công nghệ công lập chưa cao. Hợp tác quốc tế chưa đi vào chiều sâu, thiếu trọng tâm, chưa chú trọng đến chuyển giao, tiếp thu và làm chủ công nghệ tiên tiến. 
(iii) Cơ sở vật chất kỹ thuật và trang thiết bị cho hoạt động khoa học và công nghệ còn thiếu và chưa đồng bộ.
(iv) Năng lực hấp thụ, làm chủ công nghệ của của đại bộ phận doanh nghiệp còn hạn chế.
(v) Thiếu hụt các tổ chức trung gian trong hoạt động hỗ trợ chuyển giao, thương mại hóa sản phẩm KH&CN. Các chính sách của Nhà nước những năm gần đây đã thúc đẩy các trường đại học thành lập các trung tâm chuyển giao công nghệ (TLO/TTO). Tuy nhiên, đây là các chính sách vĩ mô, thiếu các hướng dẫn cụ thể về việc xây dựng và phát triển TTO một cách bài bản, dẫn tới tổ chức trung gian này hoạt động chưa hiệu quả, không kịp thời giải quyết được khó khăn cụ thể của nhà khoa học và đơn vị trong quy trình triển khai thương mại hoá các sản phẩm hoàn chỉnh.
(vi) Lỗ hổng trong quy trình phát triển sản phẩm KH&CN từ ý tưởng tới sản phẩm thương mại hóa chưa được lấp đầy do nhiều yếu tố: Các viện nghiên cứu và trường đại học đa phần dừng lại ở nghiên cứu cơ bản (ra bài báo khoa học để công bố quốc tế), rất ít các nghiên cứu phát triển sản phẩm từ đầu cho đến khi ra được sản phẩm ứng dụng; Phần lớn các nghiên cứu tạo một sản phẩm tiềm năng đều thiếu giai đoạn phát triển trung gian gồm phát triển sản phẩm (sản xuất thử nghiệm) và giai đoạn phát triển mô hình kinh doanh, kiểm định trên thị trường.
(vii) Thiếu nguồn lực kinh phí để triển khai các hoạt động thương mại hóa và đổi mới sáng tạo trong quy trình đầu tư kinh phí cho hoạt động KH&CN trong các viện nghiên cứu, trường đại học. Kinh phí cho hoạt động nghiên cứu khoa học chủ yếu dành cho nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu phát triển, thiếu kinh phí cho nghiên cứu sản xuất thử nghiệm/thương mại hóa/thử nghiệm trên thị trường. Điều này dẫn đến khó khăn trong việc tiến hành đầy đủ quy trình tạo ra các sản phẩm hoàn chỉnh. Trong khi đó, các nguồn kinh phí từ khối tư nhân cho hoạt động đổi mới sáng tạo trong trường đại học không ổn định, nguồn kinh phí Nhà nước cấp cho hoạt động KH&CN được hướng dẫn theo Nghị định 95/2014/NĐ-CP quy định về đầu tư và cơ chế tài chính đối với hoạt động khoa học và công nghệ chưa có nội dung chi tiết về tài chính cho hoạt động đổi mới sáng tạo để tương thích với chiến lược KH&CN và đổi mới sáng tạo hiện hành.
(viii) Khó khăn trong việc chuyển giao công nghệ tiên tiến của thế giới vào Việt Nam. Các quy định hiện hành về chế độ đối với chuyên gia nước ngoài còn quá thấp so với quy định chung của các quốc gia đối tác, cũng như các quy định khung về việc chuyển giao công nghệ cao từ nước ngoài vào Việt Nam; Cơ chế thanh, quyết toán từ các nhiệm vụ KH&CN đối với người nước ngoài chưa phù hợp với thông lệ chung của quốc tế, dẫn đến, hoạt động tìm kiếm, chuyển giao, hợp tác phát triển và ứng dụng công nghệ, phát triển sản phẩm ở Việt Nam không được hiệu quả.

TTBD
 
  • Ông Nguyễn Văn Tố Trưởng ban thường trực quốc hội khoá I (2/3/1946 - 8/11/1946)
  • Bà Nguyễn Thị Kim Ngân Chủ tịch Quốc hội khóa XIII, XIV (Từ 31/3/2016 đến 30/3/2021)
  • Ông Vương Đình Huệ Chủ tịch Quốc hội khóa XIV (từ ngày 31/3/2021)
  • Ông Bùi Bằng Đoàn Trưởng ban thường trực quốc hội khoá I (9/11/1946 - 13/4/1955)
  • Ông Tôn Đức Thắng Trưởng ban thường trực quốc hội khoá I (20/9/1955 - 15/7/1960)
  • Ông Trường Chinh Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội các khoá II, III, IV, V, VI (15/7/1960 - 04/7/1981)
  • Ông Nguyễn Hữu Thọ Chủ tịch Quốc hội khoá VII (4/7/1981 – 18/6/1987)
  • Ông Lê Quang Đạo Chủ tịch Quốc hội khoá VIII (18/6/1987 – 23/9/1992)
  • Ông Nông Đức Mạnh Chủ tịch Quốc hội khoá IX, X (23/9/1992 – 27/6/2001)
  • Ông Nguyễn Văn An Chủ tịch Quốc hội khoá X, XI (27/6/2001 - 26/6/2006)
  • Ông Nguyễn Phú Trọng Chủ tịch Quốc hội XI, XII (27/6/2006 - 23/7/2011)
  • Ông Nguyễn Sinh Hùng Chủ tịch Quốc hội khoá XIII (Từ 23/7/2011)
QUỐC HỘI KHÓA XV
Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV được tiến hành vào ngày 23/5/2021 với tổng số đại biểu Quốc hội là 499 đại biểu.
Cơ cấu như sau:
- 38,88% đại biểu ở các cơ quan Trung ương;
- 60,32% đại biểu ở địa phương;
- 0,80% đại biểu tự ứng cử;
- 17,84% đại biểu là người dân tộc thiểu số;
- 30,26% đại biểu là phụ nữ;
- 2,81% đại biểu là người ngoài Đảng;
- 9,42% đại biểu là người trẻ tuổi;
- 39,28% đại biểu là đại biểu Quốc hội khóa XIV tái cử;
- 1,40% đại biểu đã là đại biểu Quốc hội các khóa trước;
- 59,32% đại biểu tham gia Quốc hội lần đầu;
- 78,56% đại biểu có trình độ trên đại học;
- 21,24% đại biểu có trình độ đại học;
- 0,20% đại biểu có trình độ dưới đại học.
WEBLINK