1. Trongcông tác quản lý, điều hành
Công tác quản lý, điều hành ngân sáchnhà nước (NSNN) năm 2020 gặp rất nhiều khó khăn, thách thức, do tác động tiêucực của thiên tai, dịch bệnh, đặc biệt là đại dịch COVID-19. Bộ Tàichính đã chủ động tham mưu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủđề xuất, trình cấp có thẩm quyền quyết định các giải pháp về tài khóađể tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, đảm bảo an sinh xã hội;xây dựng và cập nhật các kịch bản tăng trưởng kinh tế, trên cơ sở đó có phươngán điều hành NSNN phù hợp tình hình thực tế; chỉ đạo các địa phươngtriệt để thực hành tiết kiệm chống lãng phí (THTKCLP) trong quản lý, điều hành,sử dụng NSNN để vừa chủ động nguồn lực khắc phục hậu quả thiên tai,bão lũ, dịch bệnh, ổn định đời sống nhân dân, vừa đảm bảo cân đốingân sách các cấp ở địa phương.
Bộ Tài chính đã tích cực, chủ động phốihợp chặt chẽ với các bộ, ngành, địa phương thực hiện tốt quy định của pháp luậtvề thu NSNN; chú trọng khai thác nguồn thu của NSNN, mở rộng cơsở thuế, đẩymạnh chống thất thu, buôn lậu, gian lận thương mại; quyết liệt xử lý nợthuế; tăng cường thanh tra, kiểm tra thuế; quản lýchặt chẽ hoàn thuế; dự báo và đánh giá mức độ ảnh hưởng của dịch COVID-19 đến thựchiện nhiệm vụ thu NSNN trên địa bàn, để có giải pháp chỉ đạo, điều hànhthu phù hợp; dừngthanh tra, kiểm tra tại doanh nghiệp nếu không phát hiện dấu hiệu vi phạm thuế,… Do đó, kết quảthu NSNN đạt cao hơn số đã báo cáo Quốc hội tại Kỳ họp thứ 10: Tổng thu cân đốiNSNN đạt trên 1,5 triệu tỷ đồng, bằng 98% dự toán (giảm so với dự toán khoảng31 nghìn tỷ đồng, nhưng tăng 185 nghìn tỷ đồng so với số báo cáo Quốc hội); tỷ lệđộng viên vào NSNN khoảng 23,9% GDP; huy động từ thuế, phí đạt khoảng19,1% GDP. Có 55/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thu đạt vàvượt dự toán, trong đó, nhiều địa phương thu vượt trên 10% dự toán.Để hỗ trợ cho doanh nghiệp, người dân vượt qua khó khăn do đại dịchCOVID-19, Bộ Tài chính đã tham mưu Chính phủ trình cấp có thẩm quyền banhành kịp thời các giải pháp miễn, giảm, giãn thuế và các khoản thukhác của NSNN[3] và phối hợp vớicác bộ, ngành rà soát, miễn, giảm các khoản phí, lệphí[4]cho các đối tượng bị ảnh hưởng của dịch COVID-19 (đến ngày31/12/2020, đã gia hạn, miễn, giảm khoảng 123,6 nghìn tỷ đồng tiền thuế, tiềnthuê đất, phí, lệ phí ),đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát để ngăn chặn, giảm thiểu việc trụclợi chính sách.
Trong bối cảnh thu ngân sách giảm do tác động của thiên tai,dịch bệnh, cân đối ngân sách các cấp khó khăn, Bộ Tài chính đã tham mưu Chínhphủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương tăng cường thực hiệncác giải pháp THTKCLP, như: công khai, minh bạch trong phân bổ dựtoán NSNN; sắpxếp thứ tự ưu tiên các nhiệm vụ chi theo mức độ cấp thiết, khả năng triển khai,thực hiện nhiệm vụ, chương trình dự án đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt; bảođảm nguyên tắc chỉ trình cấp có thẩm quyền ban hành chính sách, đề án, nhiệm vụmới khi cần thiết và có nguồn lực đảm bảo; điều hành chi đầutư gắn với tiến độ nguồnthu; chưa điều chỉnh mức lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức, lựclượng vũ trang và lương hưu từ ngày 01/7/2020, nhằm chia sẻ khó khăn với Nhànước và người lao động; tiết kiệm 10% dự toán chi thường xuyênđể tạo nguồn cải cách tiền lương (khoảng 2,9 nghìn tỷ đồng); cắt giảm kinh phí hộinghị, công tác phí, tiết kiệm thêm chi thường xuyên chưa cần thiết, cấp bách (Ngânsách trung ương tiết kiệm được khoảng 55 nghìn tỷ đồng, bằng 5% dự toán Quốchội giao). Trong 6 tháng cuối năm 2020, các địa phương tiếp tục thực hiện cắt giảm tốithiểu 70% kinh phí hội nghị, công tác phí (khoảng 01 nghìn tỷ đồng) và 10% chithường xuyên khác còn lại của năm (khoảng 6,4 nghìn tỷ đồng).Siết chặt kỷ luật, kỷ cương, tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiểmsoát chi NSNN[7]; thựchiện nghiêm việc xử lý đối với những trường hợp vi phạm, gây lãng phí NSNN phát hiện quathanh tra, kiểm tra, kiểm toán.
Việc triển khai, thực hiện hiệu quả cácgiải pháp THTKCLP đã góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ tài chính-NSNN năm 2020; đáp ứngkịp thời, đầy đủ các nhiệm vụ chi phát triển KTXH, phòng, chống thiên tai, dịchbệnh, bảo đảm an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý nhà nước và thanhtoán các khoản nợ đến hạn. NSNN đã chi trên 18,1 nghìn tỷ đồng theo các nghịquyết của Chính phủcho công tác phòng, chống dịch và hỗ trợ người dân vượt qua tác động của đạidịch COVID-19. Ngân sách Trung ương sử dụng nguồn dự phòng trên 4,6 nghìntỷ đồng chi khắc phục hậu quả lũ lụt, dịch tả lợn Châu Phi và khoảng 12,4nghìn tỷ đồng hỗ trợ các địa phương khắc phục hậu quả, khôi phục sảnxuất sau thiên tai, dịch bệnh.Các địa phương đã sử dụng khoảng 8,2 nghìn tỷ đồng dự phòng ngân sách địaphương và các nguồn lực tại chỗ chi phòng, chống, khắc phục hậu quả thiêntai, dịch bệnh, khôi phục sản xuất, hạ tầng thiết yếu, hỗ trợ đời sống Nhândân. Từ tháng 8/2020, Bộ Tài chính đưa vào vận hành Cổng thông tincông khai NSNN,góp phần cải thiện tính công khai, minh bạch,nâng cao trách nhiệm giải trình trong phân bổ, quản lý, sử dụng nguồn lực côngvà giám sát quá trình thực hiện công khai NSNN của các bộ, cơ quan ở trung ươngvà địa phương.
Tuy nhiên, do tác động tiêu cực củathiên tai, dịch bệnh, cân đối thu, chi NSNN gặp nhiều khó khăn, thu ngânsách Trung ương không đạt dự toán, bội chi NSNN tăng so với dự toán (bội chiNSNN năm 2020 khoảng 241,5 nghìn tỷ đồng, tăng khoảng 6,7nghìn tỷ đồng so với dự toán, nhưng vẫn thấp hơn mức Quốc hội cho phép điềuchỉnh).Qua công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán và kiểm soát chi của Kho bạc Nhànước phát hiện còn tình trạng quản lý, sử dụng NSNN chưa đúng định mức, tiêuchuẩn, chế độ ở một số cơ quan, đơn vị.
2. Kiểmsoát bội chi và nợ công
Năm 2020, việc pháthành trái phiếu Chính phủ (TPCP) để bù đắp bội chi phù hợp với khả năngngân quỹ nhà nước, chủ yếu là huy động vốn trung và dài hạn(không phát hành kỳ hạn dưới 5 năm) và không vaythêm từ các tổ chức tài chính quốc tế (WB, ADB....), thực hiện trảnợ đầy đủ, đúng hạn theo cam kết, góp phần củng cố xếp hạng tín nhiệmquốc gia[12]. Kỳ hạnphát hành TPCP năm 2020 đã dàigấp trên 3,5 lần năm 2011, từ mức 3,9 năm lên bình quân khoảng 13,94 năm,nâng kỳ hạn nợ bình quân danh mục trái phiếu Chính phủ thờiđiểm cuối năm 2020 lên 8,42 năm, dàigấp gần 5 lần so với thời điểm cuối năm 2011 (1,84 năm); lãi suất huyđộng bình quân cũng giảm mạnh, từ mức 12,01%bình quân năm 2011, xuống còn khoảng 2,86% năm 2020.Bộ Tài chính đã trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cho phép thực hiện tái cơcấu danh mục nợ, hoán đổi TPCP kỳ hạn ngắn sang kỳ hạn dài,qua đó kéo dài kỳ hạn còn lại, giảm áp lực trả nợ, cắt đỉnh nợ cho NSNN. Quản lýchặt chẽ bảo lãnh Chính phủ và vay về cho vay lại; tăng cường giám sát, kiểmsoát bội chi và vay nợ của ngân sách địa phương, góp phần giảm nợcông. Đến cuối năm 2020, dư nợ công khoảng 55,8% GDP, nợ Chính phủ khoảng49,6% GDP, trong giới hạn cho phép. Vay, nợ của chính quyền địa phương nằmtrong hạn mức Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; tổng vay khoảng 15,8 nghìn tỷđồng; trả nợ gốc khoảng 12,5 nghìn tỷ đồng; dư nợ cuối năm 2020 khoảng 47 nghìntỷ đồng (vay Ngân hàng Phát triển và vay lại vốn vay nước ngoài của Chính phủ).Tuy nhiên, do các dự án sử dụng vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài chịu tác động của đạidịch Covid-19 nặng nề hơn so với các dự án trong nước, nên khối lượng hoànthành và kết quả giải ngân đạt thấp so với kế hoạch (kế hoạch 47,9 nghìn tỷđồng, giải ngân 17,3 nghìn tỷ đồng, đạt khoảng 36%).
(Còn tiếp)
KẾT QUẢTHỰC HÀNH TIẾT KIỆM, CHỐNG LÃNG PHÍ TRONG QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 2020 (PHẦN 2)
3. Thựchiện tốt các Chương trình mục tiêu quốc gia
Chương trình mục tiêu quốc gia Xây dựng nôngthôn mới (NTM)hoàn thành sớm gần 2 năm so với kế hoạch, tạo bước đột phá làm thay đổidiện mạo nông thôn Việt Nam, thúc đẩy phát triển các ngành, nghề gắn với địnhhướng phát triển kinh tế nông thôn; chuyển đổi cơ cấu sản xuất kinh doanh, pháttriển các sản phẩm chủ lực, tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân nôngthôn. Năm2020, cả nước đã huy động được khoảng 459,97 nghìn tỷ đồng để đầu tư, thực hiệnChương trình; đã có 5.506 xã (62%) đạt chuẩn NTM, tăng 8% sovới cuối năm 2019; 12 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có 100%số xã đã được công nhận đạt chuẩn NTM; bình quân cả nước đạt 16,38 tiêu chí/xã(tăng 0,72 tiêu chí so với năm 2019); có 173 đơn vị cấp huyện thuộc 50tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (tăng 61 đơn vị so với cuối năm 2019) và03 tỉnh (Nam Định, Đồng Nai, Hưng Yên) đã được công nhận hoàn thành nhiệm vụxây dựng NTM; có 37/363 xã đặc biệt khókhăn (10,2%), 337 thôn, bản đặc biệt khó khăn (9,6%) được công nhận đạt chuẩnNTM. Các địa phương tiếp tục thực hiện Chương trình khoa học và công nghệ phục vụxây dựng NTM;xây dựng tiêu chí NTM nâng cao, NTM kiểu mẫu (54 tỉnh, thành phố đã ban hành Bộ tiêu chí xã NTM nâng cao; 38 tỉnh, thành phốban hành tiêu chí xã NTM kiểu mẫu; đã có 168 xã đạt chuẩn NTM nâng cao và 09 xã đạt chuẩnNTM kiểu mẫu),xây dựng khung khổ pháp lý để triển khai thực hiện Chương trìnhNTM giai đoạn 2021-2025.
Chương trình mục tiêu quốc gia Giảmnghèo bền vững tiếp tục được thực hiện đúng mục tiêu, tiến độ đề ra; thúc đẩysự chủ động vươn lên thoát nghèo của các hộ nghèo, hộ cận nghèo. Ngân sáchtrung ương đã bố trí 22,85 nghìn tỷ đồng để thực hiện một số chính sách an sinhxã hội như: chính sách giáo dục, đào tạo, dạy nghề; chính sách y tế và cácchính sách đảm bảo xã hội khác như hỗ trợ tiền điện, trợ giúp pháp lý; thựchiện chính sách cho vay ưu đãi thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội. Giảmnghèo dần đi vào thực chất hơn, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo tiếp cận đachiều giảm nhanh (tỷ lệ hộ nghèo cuối năm 2020 còn dưới 3%, giảm từ 1%-1,5% sovới cuối năm 2019; riêng các huyện nghèo còn dưới 24%, giảm trên 5% so với cuốinăm 2019). Sau 5 năm, tỷ lệ hộ nghèo bình quân cả nước giảm khoảng1,43%/năm, đạt chỉ tiêu Quốc hội giao; tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm còn27,85%, bình quân trong 4 năm giảm 5,65%/năm, vượt chỉ tiêu Quốc hội giao giảmbình quân 4%/năm. Thu nhập bình quân hộ nghèo đến cuối năm 2020 tăng khoảng 1,6 lần,vượt chỉ tiêu đề ra là 1,5 lần. Thành tựu giảm nghèo của Việt Nam thể hiện sự quyếttâm cao của Chính phủ trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững, trong đó có mụctiêu chấm dứt mọi hình thức nghèo ở mọi nơi, được cộng đồng quốc tế ghi nhận vàđánh giá cao, đượcxem là một trong các nước có tỷ lệ giảm nghèo nhanh nhất thế giới, đạt đượctiến bộ ấn tượng nhất trong thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững.
Bên cạnh đó còn một số tồn tại, hạn chếnhư chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệphóa, hiện đại hóa; cơ sở hạ tầng giao thông,thủy lợi, điện, y tế, giáo dục còn nhiều bất cập so với yêu cầu phát triển sảnxuất hàng hóa quy mô lớn, cạnh tranh quốc tế, thích ứng vớibiến đổi khí hậu; khoảng cách chênh lệch kết quả xây dựng nông thôn mớigiữa các vùng, miền khá lớn; các vấn đề phát triển sản xuất, thu nhập, hạ tầng cơsở, môi trường nông thôn chuyển biến chưa rõ nét. Kết quảgiảm nghèo chưa thực sự bền vững tại một số địa phương do hậu quảthiên tai, dịch bệnh, giá cả thị trường, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểusố. Chênh lệch giàu-nghèo, tiếp cận các dịch vụ cơ bản, việclàm giữa các vùng, nhóm dân cư chưa được thu hẹp, nhất là khu vực miền núi phíaBắc, TâyNguyên. Một sốchính sách chưa phù hợp với đặc điểm, điều kiện của từng vùng dân tộc thiểu số, hiệu quả tác độngchưa cao (nhưchính sách hỗ trợ nhà ở mức hỗ trợ còn bình quân và thấp, chính sách đầu tư nguồn nhân lực cho người dân tộcthiểu số, chính sách cử tuyển chưa gắn với sử dụng sau đào tạo,…); nguồn lực thực hiện chính sách còndàn trải, chưa tập trung hỗ trợ để làm chuyển biến thực sự đời sống người nghèodân tộc thiểu số, địa bàn nghèo, vùng lõi nghèo,...
4. Đẩymạnh dịch vụ sựnghiệp công
Công tác đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạtđộng, cơ chế tự chủ tài chính các đơn vị sự nghiệp công lập tiếp tục đạt nhữngkết quả tích cực. Khung khổ pháp lý thực hiện giao nhiệm vụ, đặt hàng hoặc đấuthầu cung cấp sản phẩm, dịch vụ sự nghiệp công sử dụng NSNN từng bước được hoànthiện, góp phần đẩy mạnh xã hội hóa một số loại hình dịch vụ sự nghiệp công,tiết kiệm kinh phí NSNN. Hoạt động cung cấp dịch vụ công đã đáp ứng được nhucầu thiết yếu, cơ bản của người dân và xã hội, cả về loại hình, số lượng và chấtlượng dịch vụ, nhất là dịch vụ giáo dục, y tế, văn hóa,… Tiếp tục thực hiện lộtrình tính giá dịch vụ sự nghiệp công, từng bước tính chi phí tiền lương, chiphí trực tiếp trong giá dịch vụ theo khả năng của NSNN, thu nhập của người dân,tạo sự minh bạch, góp phần giảm chi NSNN. Có 33 tỉnh, thành phố trực thuộcTrung ương báo cáo đã ban hành danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng NSNN vàđịnh mức kinh tế kỹ thuật, giá theo thẩm quyền để tổ chức đặt hàng, đấu thầu,cung cấp sản phẩm, dịch vụ theo quy định của pháp luật. Để tiếp tục nâng cao hiệu quả đổi mới đơn vịsự nghiệp công lập, Chính phủ đang triển khai xây dựng nghị định thay thế cho Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày14/02/2015 của Chính phủ quyđịnh cơchế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập (theo hướngquy định chung cho tất cả các lĩnh vực) và nghị định về chính sách khuyến khích xã hội hóa trong cung ứng dịch vụ sự nghiệpcông.
Tuy nhiên, phần lớn các bộ, ngành chưahoàn thành nhiệm vụ xây dựng, trình Chính phủ ban hành nghị định về cơ chế tựchủ riêng của từng ngành lĩnh vực, theo quy định tại Nghị định số16/2015/NĐ-CP. Hệ thống các đơn vị sự nghiệp công lập còn lớn, hiệu quảchưa cao. Việcchuyển đổi từ phí sang giá và lộ trình điều chỉnh giá dịch vụ sự nghiệp côngchưa kịp thời. Các địnhmức kinh tế kỹ thuật, tiêu chí, tiêu chuẩn chất lượng dịch vụ sự nghiệpcông, cơ chế giám sát, đánh giá, kiểm định chất lượng dịch vụ sự nghiệp côngtrong lĩnh vực khoa học và công nghệ chưa được ban hành, làm hạn chế việc thựchiện chế độ tự chủ của tổ chức khoa học và công nghệ công lập. Còn nhiều bộ,ngành, địa phương chưa ban hành danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụngNSNN và định mức kinh tế kỹ thuật, giá, đơn giá, để làm cơ sở thực hiện đặthàng, đấu thầu, cung cấp sản phẩm, dịch vụ theo quy định của pháp luật.
5. Về quản lý các quỹ tài chính nhànước ngoài NSNN
Các bộ, cơ quan trung ương đã chủđộng rà soát, đánh giá hiệu quả hoạt động của các quỹ thuộc phạm vi quản lý;xây dựng lộ trình cơ cấu lại, sáp nhập, dừng hoạt động hoặc giải thể các quỹ hoạtđộng kém hiệu quả (có 12 quỹ ở trung ương đang làm thủ tụcgiải thể hoặc xem xét giải thể, sắp xếp lại, sửa đổi hoặcbổ sung, hoàn thiện quy định về tổ chức, hoạt động).Đến cuối năm 2020, có 24 quỹ đanghoạt động, do 15 bộ, cơ quan ở Trung ương quản lý: 16 quỹ thành lập theo quyđịnh tại các Luật, Pháp lệnh;02 quỹ được quy định trong nghị định của Chính phủ (Quỹ hỗ trợ sắp xếp và pháttriển doanh nghiệp; Quỹ bình ổn giá xăng dầu); 03 quỹ được quy định trong quyếtđịnh của Thủ tướng Chính phủ;02 quỹ thành lập theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ (Quỹ hỗ trợ nôngdân; Quỹ hỗ trợ phụ nữ nghèo). Hiện có 04 quỹ cónhiệm vụ chi trùng với NSNN;02 quỹ hoạt động gần như phụ thuộc vào nguồn NSNN cấp, không có nguồn thu khác(Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia, Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ quốcgia). Có 03 quỹ hoạt động chưa hiệu quả: QuỹHỗ trợ khắc phục hậu quả bom mìn Việt Nam nguồn thu thấp, không hoạt động độclập mà phải phối hợp với Cơ quan thường trực hoặc Hội Hỗ trợ khắc phục hậu quảbom mìn Việt Nam để thực hiện nhiệm vụ; Quỹ Hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS nguồnthu không đáng kể, gần như không có hoạt động; Quỹ Dịch vụ viễn thông công íchsố thu hàng năm lớn, nhưng giải ngân chậm. Quỹ Đền ơn đáp nghĩa trung ương gặpkhó khăn trong vận động nguồn thu. Mô hình hoạt động của Quỹ Bảo trợ trẻ emViệt Nam không phù hợp với thực tế, gây vướng mắc, khó khăn trong thực hiện. Vìvậy, Chính phủ giao Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thực hiện rà soát cácvăn bản pháp luật có liên quan đến thành lập, hoạt động và quản lý quỹ đểtrình cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung về mô hình tổ chức quỹ chophù hợp, nâng cao tính độc lập và hiệu quả hoạt động của quỹ. QuỹQuốc gia về việc làm không có tổ chức bộ máy, kế toán vàcơ chế hoạt động giống như một nguồn vốn cho vay quay vòng do Ngân hàng Chínhsách xã hội quản lý, thực hiện cho vay theo các quy định của Nhà nước.
Tham khảo:
Báo cáo số 139/BC-CPngày 14/5/2021 của Chính phủ về Kết quả thực hành tiết kiệm, chốnglãng phí trong năm 2020.
Năm 2020,các đơn vị của Bộ Tài chính đã triển khai trên 85 nghìn cuộc thanh tra,kiểm tra chuyên ngành; bắt giữ, xử lý gần 15 nghìn vụ vi phạm tronglĩnh vực hải quan. Kiến nghị xử lý tài chính trên 76 nghìn tỷ đồng,trong đó kiến nghị thu nộp NSNN gần 22 nghìn tỷ đồng (đã nộp 13,1nghìn tỷ đồng); giảm lỗ, giảm khấu trừ và xử lý tài chính khácgần 50 nghìn tỷ đồng,…Tỷ lệ nợ đọng thuếtrên tổng thu nội địa đã giảm từ 8,5% cuối năm 2016 xuống còn 6,3%cuối năm 2020; nợ đọng thuế có khảnăng thu trên tổng thu nội địa đã giảm từ 5,7% cuối năm 2016 xuống cònkhoảng 4,1% cuối năm 2020 (Nguồn: Báocáo côngtác thực hiện nhiệm vụ tài chính - NSNN năm 2020 của Bộ Tài chính).
Như: giảm 70% mức thu lệ phí đăng kýdoanh nghiệp; giảm 67% mức phí công bố thông tin doanh nghiệp; giảm từ 50-70%phí thẩm định cấp sửa đổi, bổ sung giấy phép hoạt động bưu chính; giảm 50% mứcthu phí cấp giấy phép hoạt động của tổ chức tín dụng; giảm 50% mức phí thẩmđịnh dự án đầu tư xây dựng, phí thẩm định thiết kế dự án đầu tư xây dựng; giảm50% mức thu 20/22 khoản phí, lệ phí trong lĩnh vực chứng khoán,...
Năm 2020, Thanhtra Bộ Tài chính triển khai 35 cuộc thanh tra, kiểm tra, kiến nghị xử lý về tàichính 1,16 nghìn tỷ đồng, kiến nghị thu nộp NSNN 182,7 tỷ đồng, giảm dự toán,thanh toán, giảm cấp kinh phí 56 tỷ đồng, xử lý tài chính khác 879 tỷ đồng. Kho bạc Nhà nước thực hiện kiểm soát 961,5 nghìn tỷ đồng chithường xuyên, phát hiện trên 65,3 nghìn khoản chi chưa đủ hồ sơ, thủ tục, từchối thanh toán 41,6 tỷ đồng; kiểm soát 382,8 nghìn tỷ đồng vốn đầu tư, từ chốithanh toán 52,6 tỷ đồng, là do các chủ đầutư đề nghị thanh toán khối lượng phát sinh chưa được phê duyệt, chưa đủ hồ sơtheo quy định,...
Báo cáo tổng kết thực hiện kế hoạch pháttriển nông nghiệp, nông thôn năm 2020 của Bộ NN&PTNT và Báo cáo tổng kết, đánh giá Chương trình MTQG Giảmnghèo bền vững giai đoạn 2016-2020.