Phụ nữ tham gia cấp ủy các cấp
Phụ nữ tham gia Ban chấp hành Trung ương lần đầu tiên là từ Đại hộiVIII của Đảng. Con số này có xu hướng tăng liên tiếp trong 3 khóa X, XI, XIIvới các tỷ lệ tương ứng là 7,5%, 8,13% và 10%. Đầu nhiệm kỳ Khóa XIII có 19 Ủyviên Trung ương là nữ (18 Ủy viên chính thức và 01 Ủy viên dự khuyết), chiếm9,5%. Tạithời điểm 10/2024, có 1 Ủy viên Bộ Chính trị là nữ (1/15, chiếm 6,7%).
Ở cấp tỉnh, thành phố trực thuộcTrung ương, tỷ lệ nữ tham gia ban chấp hành đảng bộ tỉnh, thành phốqua các nhiệm kỳ gần đây tăng từ 11,23% (Nhiệm kỳ 2000 - 2005) đến 15,7%(nhiệm kỳ 2020-2025). Nhiệm kỳ 2020-2025, Ủy viên thường vụ là nữ chiếm 10,97%(nhiệm kỳ 2015-2020 là 7,85%), Bí thư và Phó bí thư chiếm tỷ lệ tương ứng là9,5% (nhiệm kỳ 2015-2020 là 6,3%) và 10,97% (nhiệm kỳ 2015-2020 là 4,14%).
Ở cấp huyện, tỷ lệ nữ tham gia banchấp hành đảng bộ huyện và tương đương năm nhiệm kỳ gần đây đều tăng,từ 11,68% (nhiệm kỳ 2000-2005) lên 17,3% (nhiệm kỳ2020-2025). Ở cấp xã, tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy cơ sở qua các nhiệm kỳ gần đâytăng nhanh, từ 11,88% (nhiệm kỳ 2000-2005) lên 20,8% (nhiệm kỳ2020-2025).
Phụ nữ tham giaQuốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp
Số lượng nữ đại biểu Quốc hội của Việt Nam tăng lên qua từng nhiệmkỳ Quốc hội. Trong quốc hội khóa I (1946 – 1960), số đại biểu nữ chỉ chiếm 2,5%với 10 đại biểu, đến Quốc hội khóa XIV (2016 – 2021) đã có 133 đại biểu Quốchội là nữ, chiếm 26,8% và đây cũng là nhiệm kỳ đầu tiên có nữ Chủ tịch Quốc hội(bà Nguyễn Thị Kim Ngân). Quốc hội khóa XV, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội là 30,26%với 151 nữ đại biểu, lần đầu tiên vượt trên 30% kể từ khi đất nước thực hiệncông cuộc đổi mới. Trong số 151 đại biểu nữ có 44 đại biểu nữ là người dân tộcthiểu số (chiếm 29,14% tổng số đạibiểu nữ), 27 nữ đại biểu trẻ (dưới 40 tuổi, đại biểu trẻ tuổi nhất là đại biểunữ sinh năm 1997); 100% các đại biểu nữ có trình độ đại học trở lên, trong đó78,8% số nữ đại biểu có trình độ trên đại học; 18 nữ đại biểu là lãnh đạo Hộiđồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội (chiếm 40% tổng số lãnh đạo các cơ quannày). Có 12/63 tỉnh, thành phố có tỷ lệ nữ đạibiểu Quốc hội đạt từ 50% đến 66,7%.
Theo dữ liệu toàn cầu về nghị viện quốc giacủa Đại hội đồng Liên minh Nghị viện thế giới (IPU) năm 2023, Quốc hội Việt Namxếp hạng 64 về tỷ lệ nữ đại biểu (chiếm 30,26%), cao hơn tỷ lệ nữ đại biểu quốchội của châu Á (21%) và của thế giới (26,7%), đứng đầutrong các quốc gia thuộc Hội đồng Liên minhnghị viện Hiệp hội các nước Đông Nam Á (AIPA).
Tỷ lệ (%) nữ đại biểu Hội đồng nhân dân các cấpcũng tăng dần qua các nhiệm kỳ, cụ thể là:
| NK 2011 – 2016 | NK 2016 – 2021 | NK 2021 – 2026 |
Cấp tỉnh | 25,7 | 26,5 | 29 |
Cấp huyện | 24,62 | 27,5 | 29,2 |
Cấp xã | 27,71 | 26,59 | 28,98 |
Cán bộ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý các cấp
Theo thống kê, từ khóa IX (1992-1997) đến khóaXV (2021-2026), số lượng bộ trưởng nữ luôn được duy trì ở mức từ 1 đến 3 người(Khóa XIV và khóa XV: 3/22 Bộ trưởng, chiếm 13,64%).
Theo số liệu báo cáo của Bộ Lao động – Thươngbinh và xã hội (tháng đến 31/12/2024:
- 14/30 các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quanthuộc Chính phủ có lãnh đạo chủ chốt là nữ, đạt 46,67% (bằng năm 2023). Trongđó:
+ Tỷ lệ các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quanthuộc Chính phủ có lãnh đạo chủ chốt là nữ 13/22 và không thay đổi so với 2023
+ Tỷ lệ các cơ quan thuộc chính phủ có lãnhđạo chủ chốt là nữ là 1/8 cơ quan (đạt 12,5% và bằng năm 2023)
- 48/63 chính quyền địa phương cấp tỉnh (76%) có lãnh đạo chủ chốt là nữ (tăng 2% so với năm2023)
- 44,56% chính quyền địa phương cấp huyện có lãnh đạo chủ chốt là nữ
- 46,58% chính quyền địa phương cấp xã có lãnhđạo chủ chốt là nữ
Từ kết quả thựctiễn, có thể rút ra một số vấn đề như sau:
Thứ nhất, phụ nữ tham giacấp ủy các cấp đã có sự chuyển biến, một số mục tiêu về công tác cán bộ nữ chưađạt được, thấp hơn nhiều so với mục tiêu đề ra. Còn nhiều địa phương, cơquan, đơn vị tỷ lệ cán bộ nữ chưa đạt yêu cầu; càng lên cấp cao thì tỷlệ nữ cấp ủy càng có xu hướng giảm.
Thứ hai, mặc dù tỷ lệ nữ Quốchội ở Việt Nam cao hơn so với tỷ lệ chung của thế giới và của châu Á nhưng đangcó chiều hướng giảm dần khoảng cách và bị tụt hạng. Tại thời điểm công bốkết quả bầu cử (tháng 6/2021), Việt Nam đứng thứ 53 về tỷ lệ nữ tham giaQuốc hội trong số 193 quốc gia theo bảng xếp hạng của Liên minh Nghị viện thếgiới (IPU); Năm 2022, Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội của Việt Nam xếp thứ 59/180quốc gia. Đến tháng 6/2024, Việt Nam đứng thứ65/193 quốc gia.
Bên cạnh đó, vẫn còn có địa phươngkhông có đại biểu nữ: Quốc hội khóa XIV có 3 địa phương không có nữ đại biểuQuốc hội: Quảng Nam, Tây Ninh, Thừa Thiên – Huế; Quốc hội khóa XV có 2 địaphương không có nữ đại biểu Quốc hội: Tp.Hải Phòng, Cà Mau. Có địa phương khôngtuân thủ tỷ lệ nữ trong danh sách ứng cử theo quy định của Luật Bầu cử đại biểuquốc hội và hội đồng nhân dân (ví dụ như Trà Vinh, tỷ lệ này chỉ đạt 33,73%).Một số địa phương có tỷ lệ nữ đại biểu hội đồng nhân dân còn thấp, đối với cấptỉnh: tỉnh Thừa Thiên – Huế đạt 13,75%, tỉnh Long An (15%), tỉnh An Giang(18,03%); tỉnh Vĩnh Long đạt tỷ lệ nữ Hội đồng nhân dân cấp huyện là 19,31% vàcấp xã là 19,54%, thấp hơn nhiều so với mức trung bình chung của cả nước.
Phân tích số liệu về đại biểu Quốchội đầu khóa XV cho thấy: số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách làm việc tạiHội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội còn có sự chênh lệch khá lớn giữanam và nữ (92 đại biểu chuyên trách là nam giới, 36 đại biểu là phụ nữ). Vềthành viên của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội phản ánh tỷ lệ khácân bằng giữa đại biểu nam và nữ ở các Ủy ban Xã hội, Ủy ban văn hóa, giáo dục,Hội đồng dân tộc; thấp nhất là số lượng thành viên nữ của Ủy ban Quốc phòng và Anninh (7 nữ đại biểu), tại các Ủy ban Kinh tế, Tài chính – Ngân sách, Tư pháp vàPháp luật, tỷ lệ thành viên ủy ban là nữ đều thấp hơn 30%.
Thứ ba, về phụ nữ tham gia quản lý nhà nước, theo Diễnđàn Kinh tế thế giới, chỉ số khoảng cách giới (xem xét trên 4 khía cạnh chính: kinh tế, giáo dục, y tế và chính trị): năm 2024 của Việt Nam xếp thứ 72/146 quốc gia tham gia xếphạng (WEF, 2024) - thứ hạng tương đương với năm 2023, tăng 11bậc so với năm 2022 và tăng 15 bậc so với năm 2021 (xếp thứ 87/146 quốc gia). Tuy nhiên, tỷ lệphụ nữ ở vị trí bộ trưởng có thứ hạng thấp – xếp thứ 114/146 quốc gia (năm2023). Hết năm 2024, Chính phủ mới chỉ đạt được 1 trong 4 chỉ tiêu liên quan đến phụ nữ tham chính trongchiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 -2030 - đó là chỉ tiêu chính quyền cấp tỉnh có lãnhđạo chủ chốt là nữ.