NHÌN LẠI MỘT SỐ CUỘC BẦU CỬ QUỐC HỘI VÀ HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN GẦN ĐÂY

Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong suốt quá trình bầu cử là một tất yếu nhằm lựa chọn được những người tiêu biểu, xứng đáng nhất, có đầy đủ các tiêu chuẩn theo luật định, không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng; có năng lực và có điều kiện thực thi nhiệm vụ của ĐBQH, đại biểu HĐND; đồng thời bảo đảm được các cơ cấu đúng đắn, hợp lý nhất.
Trần Văn Túy,
Nguyên Trưởng Ban Công tác đại biểu
I. VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
Lần đầu tiên, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986), Đảng ta đã khẳng định “Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý thành cơ chế chung trong quản lý toàn bộ xã hội”. Kể từ đó đến nay, cơ chế này ngày càng được cụ thể hoá, quán triệt sâu sắc và hoạt động hiệu quả, trở thành nét đẹp văn hoá chính trị, thể hiện rõ tính ưu việt của mối quan hệ Đảng - Nhà nước - Nhân dân.
Nhất quán với quan điểm, chủ trương, đường lối mà Đảng ta đã nêu ra, Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Đảng lãnh đạo là yếu tố tiên quyết đảm bảo sự vận hành của cơ chế, làm cho cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ đạt hiệu quả, thực sự đi vào cuộc sống. Sự khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, đối với cách mạng Việt Nam là một vấn đề có tính nguyên tắc. Đây là một quy luật khách quan, không tự nhiên mà có và không phải cứ tự nhận mà được”.
Có thể thấy, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị là xuyên suốt. Đảng ta vừa là lực lượng lãnh đạo toàn bộ hệ thống, vừa là thành viên trong hệ thống chính trị. Thực tiễn, vai trò và sự lãnh đạo của Đảng luôn luôn được xác định trong từng mối quan hệ với từng thiết chế, tổ chức cụ thể trong hệ thống chính trị. Sự lãnh đạo của Đảng với hệ thống chính trị hiện nay đặt trong điều kiện mới, đó là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, phát huy mạnh mẽ nền dân chủ trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Để bảo đảm vai trò lãnh đạo, Đảng đã tự đổi mới và nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức đảng, tăng cường mối quan hệ của Đảng với các thành tố của hệ thống chính trị . Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục khẳng định “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương”.
 Như vậy, Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công tác; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Nội dung rất quan trọng trong phương thức lãnh đạo của Đảng là việc giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể . Tuy nhiên, quy trình giới thiệu, việc tuyển chọn nhân sự giới thiệu và việc mở rộng dân chủ trong giới thiệu nhân sự là một vấn đề cần quan tâm, nhất là khi chuẩn bị Đại hội Đảng và bầu cử đại biểu Quốc hội, bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.
Khoản 1 Điều 4, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã ghi nhận, “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” - Đây là căn cứ pháp lý quan trọng nhất khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị của nước ta, mà trước tiên là lãnh đạo bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhằm xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân và vì dân. Ngoài quy định của Hiến pháp, Luật bầu cử ĐBQH và ĐBHĐND (gọi tắt là Luật bầu cử), Luật Tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ và Luật tổ chức chính quyền địa phương đã cụ thể hóa vai trò lãnh đạo của Đảng trong công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.
 Khi lãnh đạo Nhà nước thì Đảng ta phải lãnh đạo ngay từ việc xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân (khoản 1 Điều 2 của Hiến pháp). Đảng phải lãnh đạo xuyên suốt quá trình bầu cử theo nguyên tắc “phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín” (Điều 1 Luật bầu cử) nhằm đạt tới mục đích cao nhất là bầu ra được đại biểu Quốc hội là những người xứng đáng đại diện cho ý chí và nguyện vọng của Nhân dân; xứng đáng là thành viên của “cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” và đại biểu Hội đồng nhân dân là người xứng đáng là thành viên của “cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân địa phương”.
Báo cáo tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 đã rút ra bài học về “sự lãnh đạo của Ban chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy Đảng đối với công tác chuẩn bị bầu cử là yếu tố quan trọng hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cuộc bầu cử. Nơi nào có sự chuẩn bị chu đáo sát sao, thống nhất; các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng được phổ biến, quán triệt đầy đủ nơi đó công tác bầu cử được chuẩn bị chu đáo, triển khai công việc kịp thời, phối hợp chặt chẽ, kết quả đạt cao”. Kinh nghiệm này, một lần nữa khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng là tối quan trọng, là yêu cầu tất yếu của một Đảng cầm quyền trong các cuộc bầu cử đại biểu dân cử.
II- NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA ĐẢNG TRONG QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO CUỘC BẦU CỬ
Theo quy trình một cuộc bầu cử, từ khi công bố ngày bầu cử cho đến khi tổng kết cuộc bầu cử có thể chia ra hơn 40 công đoạn, mà trước tiên là việc trình Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương xem xét, thông qua Đề án bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; trên cơ sở đó, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị về lãnh đạo cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp theo mỗi nhiệm kỳ, như Chỉ thị 188/CT-TW ngày 19/1/1971, Chỉ thị số 212/CT - TW ngày 29/11/1974; Nghị quyết số 35/NQ - TW ngày 12/1/1981 của Bộ Chính trị; Chỉ thị số 103/CT - TW ngày 20/1/1987, Chỉ thị số 51-CT/TW, ngày 04-01-2016 về lãnh đạo cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và bầu của đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021. Để chuẩn bị cho cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026, ngày 20/6/2020, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 45-CT/TW về lãnh đạo cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XV và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026. 
Căn cứ Chỉ thị của Bộ Chính trị và các nghị quyết, chỉ thị của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, hướng dẫn của các bộ, ngành liên quan, Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thành ủy các tỉnh thành phố đã ban hành các hướng dẫn về lãnh đạo cuộc bầu cử. Các cấp ủy từ tỉnh đến cơ sở đều thành lập Ban chỉ đạo để lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện công tác bầu cử; chỉ đạo giải quyết kịp thời những vấn đề phát sinh trong quá trình chuẩn bị và tổ chức bầu cử.
1. Quan tâm và đề cao về tiêu chuẩn người được giới thiệu ứng cử ĐBQH và ĐBHĐND, không vì cơ cấu mà hạ thấp tiêu chuẩn người ứng cử đại biểu
Quốc hội, Hội đồng nhân dân là các cơ quan đại biểu, việc đảm bảo một cơ cấu đại biểu hợp lý vừa đủ khả năng đại diện cho ý chí, lợi ích của các tầng lớp, các cơ cấu xã hội luôn là một yêu cầu có tính nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động. Thực tiễn bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp cho thấy, dù đã có nhiều chủ trương, giải pháp được thực hiện nhằm đáp ứng yêu cầu vừa đảm bảo các tiêu chuẩn vừa đảm bảo cơ cấu đại biểu để nâng cao chất lượng đại biểu nhưng vấn đề này vẫn tiếp tục đặt ra cho mỗi kỳ bầu cử. Bài toán về mối quan hệ giữa tiêu chuẩn đại biểu và cơ cấu đại biểu luôn là bài toán khó khi xây dựng đề án bầu cử của Quốc hội, Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Ngày nay, trong điều kiện, vị trí, vai trò của Quốc hội luôn được đề cao, chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của Quốc hội, đại biểu Quốc hội ngày càng nặng nề, phức tạp thì việc giải quyết mối quan hệ giữa tiêu chuẩn và cơ cấu đại biểu để nâng cao chất lượng đại biểu càng trở nên khó hơn, cần thiết hơn. Bản chất của Quốc hội và của Hội đồng nhân dân đòi hỏi phải luôn giữ vững tiêu chuẩn, đảm bảo cơ cấu đại biểu, không cho phép hạ thấp tiêu chuẩn để đảm bảo cơ cấu, hoặc giảm cơ cấu để nâng cao chất lượng đại biểu. Tuy nhiên, việc xử lý mối quan hệ này cũng cần hết sức linh hoạt, không cứng nhắc, rập khuôn, vừa đảm bảo tính nguyên tắc, vừa đảm bảo tính thực tiễn và yêu cầu của tổ chức và hoạt động của Quốc hội và của mỗi cấp Hội đồng nhân dân.
Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân không quy định “cứng” thành phần, cơ cấu đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân mà giao cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội thống nhất ý kiến với Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQVN, Thường trực Hội đồng nhân dân dự kiến cơ cấu, thành phần đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, đảm bảo tỷ lệ đại diện hợp lý của các tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, Luật bầu cử quy định có hai thành phần đặc thù với tỷ lệ được xác định cụ thể trong cơ cấu những người ứng cử đại biểu Quốc hội là: Số người dân tộc thiểu số được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội phải bảo đảm ít nhất mười tám phần trăm tổng số người trong danh sách chính thức; có ít nhất ba mươi lăm phần trăm tổng số người trong danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội là phụ nữ. Số lượng người ứng cử là phụ nữ, người dân tộc thiểu số trong danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân từng cấp được xác định phù hợp với tình hình cụ thể của từng địa phương. Như vậy, khi triển khai công tác giới thiệu nhân sự vào danh sách đề cử chính thức, việc tuân thủ tỷ lệ ứng cử viên là người dân tộc thiểu số, ứng cử viên là phụ nữ là bắt buộc, còn số lượng, cơ cấu các thành phần xã hội khác được xác định phù hợp với tình hình thực tiễn tại mỗi kỳ bầu cử. Có thể thấy rằng, vướng mắc trong giải quyết mối quan hệ giữa tiêu chuẩn đại biểu và cơ cấu đại biểu về thực chất không xuất phát từ quy định của pháp luật, mà chính là ở khâu tổ chức thực hiện, trong đó có sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng trong việc chuẩn bị nhân sự, giới thiệu ứng cử cũng như trong quá trình chỉ đạo tổ chức cuộc bầu cử.
Thực tiễn bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV, đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2016 – 2021 cho thấy tỷ lệ ứng cử viên là phụ nữ ở nhiều nơi đạt và vượt 35%, tỷ lệ người dân tộc thiểu số đạt và vượt 18% trong danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội, nhưng kết quả đại biểu phụ nữ trúng cử chỉ đạt 26,80% (133 người); đại biểu dân tộc thiểu số đạt 17,30% (86 người). Vấn đề đặt ra là việc lựa chọn giới thiệu ứng cử viên là phụ nữ, dân tộc thiểu số chưa thật sự phù hợp nên khả năng trúng cử không cao. Kết quả này là do nhiều nguyên nhân nhưng trong đó có nguyên nhân là đặt trên vai ứng cử viên nữ, ứng cử viên là người dân tộc thiểu số trách nhiệm đại diện cho nhiều cơ cấu kết hợp. Nhiều trường hợp người được giới thiệu ứng cử để “gánh”  hai đến ba cơ cấu, cá biệt có trường hợp “gánh” cả 4 cơ cấu  (dân tộc, nữ, trẻ, ngoài đảng). Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng hoạt động của đại biểu cũng như cơ quan mà đại biểu tham gia.
Bên cạnh đó, một số cơ cấu chưa được quan tâm thích đáng. Đơn cử như cơ cấu kết hợp tái cử. Qua theo dõi một số nhiệm kỳ Quốc hội gần đây cho thấy chỉ có khoảng một phần ba số đại biểu Quốc hội sẽ tái cử (khóa XIII là 33,4%, khóa XIV là 32,3%) cũng phần nào ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động của Quốc hội. Sau một nhiệm kỳ hoạt động, kiến thức và kỹ năng tích lũy được sẽ là hành trang, là nền tảng quan trọng cho nhiệm kỳ tiếp theo. 
Có thể nói, việc dự kiến cơ cấu, thành phần những người được giới thiệu ứng cử đại biểu dân cử là công đoạn nghiệp vụ đầu tiên. Nó phải mang đầy đủ tính đại diện đúng đắn, hợp lý của cơ quan dân cử, đảm bảo tiêu chuẩn, chất lượng đại biểu. Công đoạn này sẽ chi phối tất cả các công đoạn tiếp theo. Nếu không bảo đảm tính hợp lý, chính xác ngay từ đầu sẽ gây khó khăn cho tất cả các công đoạn tiếp theo. 
Bài toán đặt ra cho mỗi cuộc bầu cử là làm sao giải quyết được mối quan hệ giữa cơ cấu với tiêu chuẩn người ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Trong một số  nhiệm kỳ gần đây mặc dù đã được Đảng quan tâm nhưng chưa giải quyết được triệt để. Nguyên nhân có nhiều (có cả nguyên nhân chủ quan và khách quan) như: một số đại biểu có kỹ năng, kinh nghiệm hoạt động dân cử phong phú hoặc những chuyên gia có kiến thức sâu rộng, tâm huyết được giới thiệu ứng cử nhưng không trúng cử…
2. Việc hiệp thương, giới thiệu người ứng cử ĐBQH, ĐBHĐND và điều chỉnh cơ cấu, thành phần, số lượng người được giới thiệu ứng cử.
Điều 40 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân quy định, căn cứ vào kết quả hiệp thương lần thứ nhất , UBTVQH sẽ tiến hành điều chỉnh lần thứ nhất cơ cấu, thành phần, số lượng người của cơ quan, tổ chức, đơn vị ở trung ương và địa phương được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội để bảo đảm cơ cấu, số lượng, thành phần  trong Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp đã được các cấp ủy Đảng thông qua.
Tại cuộc bầu cử khóa XIV vừa qua, theo kiến nghị của hội nghị hiệp thương của Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam và hội nghị hiệp thương các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, UBTVQH đã điều chỉnh: Thay đổi cơ cấu phụ nữ ở tỉnh Quảng Ninh bằng cơ cấu doanh nghiệp (than); chuyển cơ cấu MTTQ từ thành phố Hà Nội về tỉnh Bình Định và chuyển cơ cấu Công an từ tỉnh Bình Định về thành phố Hà Nội… Tuy công tác dự kiến và điều chỉnh cơ cấu, thành phần người được giới thiệu ứng cử được thực hiện bài bản, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng nhưng vẫn không tránh khỏi những bất cập. Báo cáo Tổng kết cuộc bầu cử ĐBQH khóa XIV và ĐBHĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 (số 695/BC-HĐBCQG này 19-7-2016 của Hội đồng bầu cử Quốc gia) trình tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa XIV đã nhận định, “Một số cơ cấu, số lượng phân bổ đại biểu chưa được như định hướng, dự kiến ban đầu, nhất là tỷ lệ nữ, tỷ lệ người ngoài đảng; nhiều người do Trung ương giới thiệu không trúng cử ở một số tỉnh, thành phố...Việc đưa ra khỏi danh sách một số ứng cử viên tự ứng cử ĐBQH trong hiệp thương lần thứ ba mà được cử tri nơi cư trú, cử tri ở cơ quan tín nhiệm chưa hoàn toàn được dư luận đồng tình”. Bài học này gián tiếp nói rằng, ở những nơi đó, sự lãnh đạo, chỉ đạo có phần lơi lỏng, hạn chế nhất định.
Một là, cơ cấu đại biểu nữ chưa đạt. Đã có một số khóa tỷ lệ đại biểu nữ đạt trên 30% (khóa V tới 32%). Những các nhiệm kỳ gần đây chỉ đạt từ 18 đến trên 27%. Có thể có nhiều nguyên nhân, nhưng có hai nguyên nhân mà cuộc bầu cử tới đòi hỏi sự lãnh đạo quyết liệt của các Cấp ủy để khắc phục tình hình này. Trước hết là nguyên nhân về tính đặc thù của một số cơ quan, tổ chức, đơn vị ít phụ nữ mà số người ứng cử lại tương đối nhiều như Quốc phòng, an ninh, Thường trực các cơ quan của Quốc hội...) những cơ quan này không thể áp dụng tỷ lệ người ứng cử là nữ như quy định chung được. Ngược lại nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị, nhất là ở địa phương có nhiều phụ nữ, nhưng trong thực hiện lại có tâm lý cố gắng đạt tỷ lệ trung bình là được rồi. 
Hai là, đối với việc giới thiệu người ứng cử ĐBHĐND các cấp, ngoài những vấn đề tương tự như giới thiệu người ứng cử ĐBQH thì cần lưu ý tới cơ cấu nữ ở HĐND cấp xã. Thực tế cho thấy, kết quả các cuộc bầu cử gần đây chưa bao giờ tỷ lệ đại biểu nữ HĐND cấp xã đạt được định hướng, và bao giờ cũng thấp hơn tỷ lệ nữ ĐBHĐND cấp tỉnh và cấp huyện, (nhiệm kỳ 2007-2011, cấp tỉnh 23,9%, cấp huyện 23,0%, cấp xã 19,5%; nhiệm kỳ 2011-2016, cấp tỉnh 25,2%, cấp huyện 24,6%, cấp xã 21,7%; nhiệm kỳ 2016-2021, cấp tỉnh 26,7%, cấp huyện 27,5%, cấp xã 26,5%). Vì sao có tình hình này? Vì việc vận dụng tiêu chuẩn. Bốn tiêu chuẩn ĐBHĐND là thống nhất, nhưng đối với ĐBHĐND cấp xã thì tiêu chuẩn thứ ba “có trình độ văn hóa, chuyên môn, đủ năng lực, sức khỏe, kinh nghiệm công tác và uy tín để thực hiện nhiệm vụ đại biểu; có điều kiện tham gia các hoạt động của HĐND” đối với phụ nữ ở cấp xã nói chung và phụ nữ ở xã bản miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng là vô cùng khó khăn. Trình độ văn hóa thấp, chuyên môn, khoa học kỹ thuật yếu; một số nơi do tập tục, lối sống lạc hậu...nên khó có điều kiện tham gia hoạt động chính trị, xã hội. Một số chị em lại tự ty, không muốn tham gia hoạt động xã hội. Có lẽ các tổ chức Đảng ở những địa bàn này phải căn cứ vào tình hình, điều kiện thực tế để linh hoạt lựa chọn, giới thiệu.
3. Xây dựng các tổ chức phụ trách bầu cử ở địa phương
Theo Luật bầu cử thì các tổ chức làm công tác bầu cử ở địa phương gồm Ủy ban bầu cử cấp tỉnh, có từ 21 đến 31 thành viên; Ủy ban bầu cử cấp huyện, có từ 11 đến 15 thành viên; Ủy ban bầu cử cấp xã, có từ 9 đến 11 thành viên. Ban bầu cử ĐBQH, có từ 9 đến 15 thành viên; Ban bầu cử ĐBHĐND cấp tỉnh, có từ 11 đến 13 thành viên; Ban bầu cử ĐBHĐND cấp huyện, có từ 9 đến 11 thành viên; Ban bầu cử ĐBHĐND cấp xã có từ 7 đến 9 thành viên. Tổ bầu cử: Mỗi khu vực bỏ phiếu có một Tổ bầu cử, có từ 11 đến 21 thành viên.
Số lượng các tổ chức bầu cử ở địa phương là rất lớn, các thành viên trong các tổ chức đó càng vô cùng lớn. Riêng các tổ chức cuộc bầu cử năm 2016 bao gồm: 63 Ủy ban bầu cử cấp tỉnh, 712 Ủy ban bầu cử cấp huyện, 11.162 Ủy ban bầu cử cấp xã; 184 Ban bầu cử ĐBQH, 1.096 Ban bầu cử ĐBHĐND cấp tỉnh, 6.721 Ban bầu cử ĐBHĐND cấp huyện, 79.988 Ban bầu cử ĐBHĐND cấp xã và 90.800 Tổ bầu cử. Việc phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức làm công tác bầu cử ở địa phương là rất quan trọng. Kinh nghiệm chỉ đạo bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2016-2021 vừa qua cho thấy hai vấn đề: 
Một là, phải bảo đảm các thành phần đúng như yêu cầu luật định, nhân sự (các thành viên) của các tổ chức phải bảo đảm yếu tố chính trị cao và có nghiệp vụ hoặc đã từng làm tốt công tác bầu cử các khóa trước, đặc biệt là ở cấp xã, cấp huyện. Ở 2 tỉnh có sai sót thì có một khu vực bỏ phiếu bầu cử ĐBQH và ĐBHĐND cả ba cấp vi phạm pháp luật bầu cử và có một đơn vị bầu cử ĐBHĐND cấp xã có sai sót lớn, cả hai tỉnh phải hủy kết quả và tiến hành bầu cử lại (so với cuộc bầu cử ĐBQH và ĐBHĐND các cấp nhiệm kỳ 2011-2016 thì ở 6 tỉnh, thành phố có sai sót: một khu vực bỏ phiếu ĐBHĐND cấp huyện và 15 khu vực bỏ phiếu ĐBHĐND cấp xã, phải tổ chức bầu cử lại). Có nhiều nguyên nhân, nhưng chung nhất là vi phạm luật bầu cử nhằm có lợi cho lợi ích riêng và thiếu tinh thần trách nhiệm cộng với trình độ năng lực yếu kém. Bởi vậy việc lựa chọn nhân sự, tăng cường quản lý và lãnh đạo tư tưởng chặt chẽ là vô cùng quan trọng và cấp thiết. 
Hai là, sự lãnh đạo của các tổ chức bầu cử ở cấp huyện, cấp xã, nhất là ở các Ban, các Tổ bầu cử, đảng viên vừa có vai trò lãnh đạo, vừa có trọng trách tác nghiệp nghiệp vụ cụ thể trong bầu cử, do đó tuyệt đối không bao giờ được xem nhẹ sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, cụ thể. Cần nói thêm là, những thiêu sót, sơ xuất như in sai phiếu bầu, viết sai họ, tên người ứng cử, phát thừa phiếu bầu...mà kiểm tra giám sát cũng không phát hiện ra sẽ dẫn đến hậu quả rất tai hại, phải tiêu hao lớn công sức, thời gian, tiền của để chỉnh đốn tư tưởng và tổ chức bầu cử lại.
4. Việc phân bổ người ứng cử về các địa phương và phân chia người ứng cử vào các đơn vị bầu cử:
Việc giới thiệu người ứng cử ĐBQH về các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và giới thiệu người ứng cử ĐBHĐND cấp tỉnh về các huyện, quận, thị xã, trong lãnh đạo phải chú ý cả hai mặt là đặc điểm kinh tế, xã hội của địa phương và sự tương thích ngành nghề, lĩnh vực hoạt động của người được giới thiệu. Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV có 15 người được Trung ương giới thiệu về địa phương ứng cử ĐBQH nhưng không trúng cử; ở HĐND cấp tỉnh cũng có một số nơi có tình trạng tương tự. Có thể có nhiều nguyên nhân, nhưng trong đó có nguyên nhân lĩnh vực hoạt động của người ứng cử không thật phù hợp với địa phương nơi ứng cử. Có cử tri đồng bằng sông Cửu Long từng phát biểu: Ai giúp bà con chúng tôi tiêu thụ hết lúa gạo và nông sản với giá thu mua phải chăng thì chúng tôi giơ cả hai tay bầu ngay; còn khảo cổ, thơ phú, tuồng chèo, chúng tôi chưa cần... Đây cũng là một kinh nghiệm trong lãnh đạo và trong tham mưu phân bổ người ứng cử theo địa bàn. 
Bên cạnh đó, Luật bầu cử chưa quy định cụ thể, chi tiết việc phân chia, lập danh sách những người ứng cử vào các đơn vị bầu cử nên có hai chi tiết đáng quan tâm trong lãnh đạo, chỉ đạo. Một là, có một số địa phương lo ngại trách nhiệm để người ứng cử có chức sắc cao của địa phương hoặc do Trung ương giới thiệu mà bị “trượt” nên đã bố trí những người ứng cử khác trong danh sách bầu có trình độ và vị thế cách biệt, thấp xa. Họ giải thích rằng tất cả các ứng cử viên đều đủ tiêu chuẩn nên cử tri tín nhiệm ai thì bầu. Thực ra đây là một ví dụ điển hình của tình trạng mà dân gian gọi là “quân xanh, quân đỏ”, trong lãnh đạo, chỉ đạo phải cố gắng khắc phục, hạn chế tối đa. Hai là, thực tiễn cho thấy, cũng là người ứng cử đủ tiêu chuẩn ứng cử ĐBQH, đủ tiêu chuẩn ứng cử ĐBHĐND nhưng sắp xếp vào đơn vị bầu cử này thì có thể không trúng cử, nhưng sắp xếp vào đơn vị bầu cử khác thì có thể đắc cử. Điều này đòi hỏi khi phân chia, lập danh sách những người ứng cử vào các đơn vị bầu cử phải hết sức công bằng, công minh, khách quan, trung thực, mà mục đích đạt đến là, đảm bảo được các cơ cấu định hướng ở mức tốt nhất... Muốn vậy thì cần chỉ đạo nghiên cứu định ra những tiêu chí cần thiết làm căn cứ cho việc phân chia, sắp xếp. Các tiêu chí đó có thể là: có trình độ tương đương, có vị thế (chức danh) tương đương, có nam có nữ, khác đơn vị công tác... Như vậy việc trúng cử hay không sẽ phụ thuộc nhiều vào Chương trình hành động và khả năng vận động bầu cử của người ứng cử...

Như vậy, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong suốt quá trình bầu cử là một tất yếu nhằm lựa chọn được những người tiêu biểu, xứng đáng nhất, có đầy đủ các tiêu chuẩn theo luật định, không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng; có năng lực và có điều kiện thực thi nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; đồng thời bảo đảm được các cơ cấu đúng đắn, hợp lý nhất. Đó là căn cứ, là cơ sở pháp lý để hình thành các cơ quan nhà nước trong nhiệm kỳ mới. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành trung ương khóa XII (Nghị quyết 26-NQ/TW ngày 19/5/2018) về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lực đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ đã chỉ ra nhiều hạn chế trong công tác cán bộ thời gian qua và đề ra các nhiệm vụ, giải pháp trong thời gian tới là phải tiếp tục đổi mới công tác ứng cử, bầu cử, bổ nhiệm, bố trí, sử dụng cán bộ. Hoàn thiện các quy định, quy chế để cấp ủy các cấp có cơ cấu hợp lý, tinh giản số lượng và nâng cao chất lượng; thực hiện nghiêm việc lựa chọn, bầu cử có số dư; ứng viên trước khi bổ nhiệm phải trình bày Chương trình hành động và cam kết trách nhiệm thực hiện; xây dựng chỉ tiêu cơ cấu phù hợp; quy định trách nhiệm của lãnh đạo và cấp ủy viên các cấp trong việc tiến cử người có đức, có tài; người đứng đầu có trách nhiệm đào tạo, bồi dưỡng, tiến cử người thay thế mình; có cơ chế phát hiện, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ có bản lĩnh, năng lực nổi trội và triển vọng phát triển vào vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả vượt cấp, nhất là cán bộ trẻ./.

Cập nhật : 15:08 - 09/02/2023
In trang này Click here to Print it!